HÀ NỘI :
Khánh Trắng :
Khánh “Trắng”, tên thật là Dương Văn Khánh, là một nhân vật cầm đầu
băng * xã hội đen gồm 19 tội phạm khét tiếng Hà Nội trong những năm cuối
của thế kỷ 20. Khánh bị bắt, đem ra xét xử, bị lãnh án tử hình năm
1997.
Theo bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm thì Khánh “Trắng” phạm 4
tội: giết người, cướp tài sản công dân, trốn thuế và che giấu tội phạm.
Khánh phải nhận án tử hình và phải nộp cho Nhà nước gần 3,9 tỷ đồng,
trong đó có hơn 3,5 tỷ đồng tiền phạt, 350 triệu đồng tiền thuế, tiền án
phí, bồi thường cho các bị hại…
Khánh “Trắng” có vẻ ngoài nho nhã, thư sinh song lại được xem là một
sát thủ máu lạnh đội lốt một ông đội trưởng bốc xếp. Với vẻ ngoài hào
hoa lịch lãm và làm nhiều công tác từ thiện đều là để che mắt thiên hạ .
Tuy nhiên, Khánh “Trắng” từng có lần bị tạt acid cực nặng và vụ này
do trùm dao búa Nguyễn Việt Dũng ở Hải Phòng thực hiện. Giới giang hồ
đồn đại rằng: theo đơn đặt hàng của trùm Dũng, đàn em của Dung Hà từ Hải
Phòng lên Hà Nội tạt acid Khánh Trắng, đội trưởng đội bốc xếp chợ Đồng
Xuân. Thế nhưng, sau khi bỏ cả núi tiền chữa sẹo mà không hết, Khánh vẫn
không dám dọa hoặc chơi lén lại Dũng .
Thiếu tướng Phạm Xuân Quắc, nguyên Cục trưởng Cục Cảnh sát Điều tra
Tội phạm về Trật tự Xã hội (C14), Bộ Công an chính là Trưởng ban chuyên
án vụ bắt trùm tội phạm Khánh “trắng” và đồng * ở Hà Nội năm 1996. Ông
Quắc cho rằng, xét về mặt tổng kết các nghiệp vụ của ngành công an, thì
vụ án băng nhóm của Khánh “trắng” vẫn là một cái mốc quan trọng đánh giá
sự tiến hóa nguy hiểm của tội phạm hình sự ở Việt Nam, từ chỗ hoạt động
theo kiểu các ổ nhóm nhỏ lẻ bắt đầu liên kết với nhau thành những băng
nhóm tội phạm quy mô lớn, có tổ chức chặt chẽ với các hoạt động bảo kê,
móc nối theo kiểu xã hội đen, đâm thuê chém mướn và đòi nợ thuê.
Năm 1991, ở Hà Nội có một vụ giết người do Dương Văn Khánh (Khánh
“trắng”) cầm đầu, thực hiện. Sự việc xảy ra khoảng 12h30 ngày 24/3/1991.
Nguyễn Đức Thắng (tức Đạt) trong băng buôn bán mũ cối giả ở chợ Đồng
Xuân xích mích với Trần Đại Dương, đàn em của Khánh “trắng”. Khi Khánh
“trắng” cùng các đàn em Trần Đại Dương, Vũ Quốc Dũng, Phạm Gia Chiến,
Tống Văn Thắng đi ngang số nhà 44 Hàng Chiếu thì gặp Hưng, anh ruột Đạt.
Khánh “trắng” hô đàn em bắt Hưng. Hưng chống cự, bị cả bọn quây lại
đánh hội đồng.
Biết anh đang bị đánh, Đạt cướp dao thái thịt của chị Hoa ở đường
Nguyễn Thiện Thuật chạy đến đâm Chiến và Dũng bị thương. Đạt bị băng
Khánh “trắng” bắt đưa lên xích lô, nhưng khi đến Công an phường Đồng
Xuân thì Đạt đã chết… Nguyên nhân chết của Đạt được pháp y Công an Tp.
Hà Nội xác định do nhát đâm vào cổ xuyên thấu phổi, mất máu… Dũng bị
phạt 1 năm tù giam.
Sau này, ngày 28/1/1996, Ủy ban thẩm phán TAND tối cao xét xử tái
thẩm vụ án đã hủy hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm năm 1991 bằng Quyết
định 55/UBPT vì lý do Vũ Quốc Dũng không có hành vi giết người…
Cơ quan CSĐT Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) xác định Dương Văn Khánh
dàn dựng có bài bản để Dũng “phở” chỉ phải chịu mức án nhẹ nhất. Qua lời
khai của Dũng “phở”, Trần Đại Dương, Tống Văn Thắng và các nhân chứng
khác, Cơ quan điều tra biết rằng các nhát đâm trên người Đạt đều do một
mình Khánh “trắng” thực hiện bằng chính con dao mà Đạt cướp của chị Hoa.
Sơn Bạch Tạng
Trong giới giang hồ miền Bắc từ trước đến nay, cái tên Sơn “bạch
tạng” được nhắc đến với nhiều câu chuyện thêu dệt về nhân vật “cầm
trịch” dân đao búa đất Hà thành.
Không giống như Khánh “trắng”, Phúc “bồ”, Vinh “đồng”, Dương Tử Anh… hay
nhiều anh chị có máu mặt khác thích “trống giong cờ mở”, Sơn lặng lẽ
thu mình thống lĩnh việc cờ bạc và các hoạt động “đen” khác. “Tảng băng
chìm” này của Sơn mang lại rất nhiều lợi nhuận và danh thế…
Là một trong những tay anh chị nổi tiếng nhất trong giang hồ nên Sơn
“bạch tạng” luôn được các đơn vị công an “chăm sóc” kỹ lưỡng, đặc biệt
là Phòng CSĐT tội phạm về TTXH của Công an TP Hà Nội. Tuy nhiên với sự
khôn ngoan của kẻ đã lăn lộn trên giang hồ, Sơn “bạch tạng” vẫn giữ được
“chất” của mình và luôn khiến dân đao búa đất Hà thành bái phục.
Trên khắp đất nước, bất kỳ một dân chơi nào cũng đều biết tiếng Trần
Quốc Sơn tức Sơn “bạch tạng” như là một ông trùm thực sự của giang hồ Hà
Nội. Các đại ca khét tiếng như Cu Nên, Cu Lý, Lâm “già”, Minh “xăm”,
Thành “xăm”… đều phải kiêng nể Sơn trong các cuộc ân oán.
Khi giang hồ vào thời loạn, thế kiềng ba chân Sơn “bạch tạng” – Phúc
“bồ” – Khánh “trắng” tan vỡ. Sơn có cơ hội thống lĩnh xã hội đen Hà Nội.
Không bỏ qua thời khắc quý giá này, Sơn “chiêu binh mãi mã”, xưng hùng
xưng bá ở khu vực chợ xe Phùng Hưng và các sòng bạc lớn ở Hà Nội.
Sinh năm 1962, Sơn cầm tinh con hổ. “Chúa sơn lâm” luôn ngồi ghế tiên
chỉ của dân đao búa trong mọi cuộc chơi. Tính Sơn nhỏ nhẹ, ít rượu chè,
trong thời gian đấu đá với các đối thủ, Sơn lại càng lặng lẽ. Mỗi khi
Sơn xuất hiện tại các vũ trường, tất cả những cô đào đẹp nhất phải ra
hầu rượu. Mỗi khi Sơn “trót” sa chân vào vòng lao lý, tất cả các phạm
nhân đều phải thừa nhận Sơn là “huynh trưởng”. Đã nói là làm, đã làm là
tới cùng, tính cách ấy thể hiện rõ trong các phi vụ làm ăn cũng như
những cuộc thanh trừng bằng máu khiến bọn đàn em vô cùng khiếp sợ.
Khi Khánh “trắng” bị bắt, Sơn đã “lên ngôi” và trở thành “anh cả” tại
giang hồ miền Bắc. Thế và lực của Sơn rất lớn bởi tiền và những gã đàn
em máu lạnh, sẵn sàng xuống tay dao mỗi khi đại ca ra lệnh.
Cùng lúc đó ở Hải Phòng, Minh “sứt” cùng “tứ đại hộ pháp” của mình là
Dũng “Bắc Kạn”, Dũng AK, Dũng “đui”, Dũng K cũng phô trương thanh thế
thống lĩnh giang hồ đất Cảng. Minh đi buôn lậu hàng điện tử, hêrôin,
xăng dầu… nên nguồn tài chính của gã hết sức khổng lồ. Đây là sự hậu
thuẫn rất lớn cho Minh trong việc phong tỏa giang hồ cả nước. Ngoài ra,
“tứ Dũng” của Minh đi đâu cũng vác hàng nóng đi theo nên băng nhóm của
Minh ngày càng lừng lẫy thanh thế. Thậm chí chúng còn có cả súng AK đi
áp tải hàng lậu.
Ngay từ đầu, Sơn và Minh đã chẳng ưa gì nhau nên mối quan hệ của giới
hắc đạo hai thành phố rơi vào tình trạng “chiến tranh lạnh”. Ngoài việc
buôn ma tuý ra, đàn em của Minh là Dung “hà” mở các sới bạc tại Thuỷ
Nguyên, Kiến An… cạnh tranh với Sơn và Thắng trong nghề đỏ đen bịp bợm.
Không những thế, Dung còn cậy thế anh mình phong toả “giới tín dụng đen”
tại Casino Hải Phòng khiến Hạnh “sự”, một người em kết nghĩa của Thắng,
mất đất làm ăn…
Quê gốc của Sơn “bạch tạng” ở phường Phương Liệt, Thanh Xuân nhưng
sau đó chuyển về phố Ngô Thì Nhậm sinh sống. Là con út trong một gia
đình nề nếp nhưng từ nhỏ Sơn đã quậy phá, ngỗ ngược và liên tục bị chính
quyền địa phương tập trung cải tạo. Mới 15 tuổi, Sơn đã bị công an quận
Hoàn Kiếm bắt vào vì tội móc túi (năm 1977).
Đến ngày 20/3/1978, Sơn tiếp tục bị tra tay vào còng cũng về tội “hai
ngón”. Ngày 19/1/1979, TAND quận Hoàn Kiếm xử Sơn 8 tháng tù, 12 tháng
thử thách. Đến ngày 16/3/1980, Sơn lại tiếp tục bị bắt về tội danh trên.
Không những thế, khi còn trẻ, ông trùm này còn rất nổi tiếng vì “máu
lạnh” trong những cuộc đánh lộn, đâm chém. Trước những hành vi phạm tội
liên tiếp đó của Sơn, chính quyền địa phương buộc phải lập hồ sơ đưa đi
cải tạo tại trại Thanh Lâm, Thanh Hoá.
Do đã gây dựng được “số má” ở ngoài đời nên khi vào trại, Sơn được
ngồi ghế “đại bàng”. Ở đây, ông trùm máu lạnh này thu phục hàng loạt đàn
em trong Nam ngoài Bắc để nhân rộng thanh thế. Đặc biệt là những đàn em
ở Hải Phòng, Nam định được “đại ca” biệt đãi hơn cả.
Ngoài bản lĩnh do những ân oán giang hồ tạo nên, Sơn còn được đàn em
hết sức nể phục vì sự điềm đạm, ăn nói khéo léo nhẹ nhàng và tính cách
“nhất ngôn cửu đỉnh”. Đã nói là làm và đã làm là hết mình nên Sơn được
đàn em nể trọng không kém gì Thắng. Hơn nữa, ít ai thấy Sơn nói tục chửi
bậy, uống rượu, không bao giờ sử dụng ma tuý nhưng đã ra tay thì hết
sức lạnh lùng.
Sau những phi vụ làm ăn, Sơn bao giờ cũng tỏ ra cưu mang đàn em và
không nhận phần nhiều về mình. Thậm chí, khi những cuộc xung đột trong
hai giới hắc bạch xảy ra, Sơn cũng đứng ra dàn xếp tránh đổ máu cho đàn
em và các băng nhóm khác. Khi cải tạo trong trại, mỗi lần nhận được quà
cáp gửi vào, Sơn “bạch tạng” thường chia đều cho đàn em nhưng kẻ nào có ý
định vượt mặt thì Sơn không bao giờ bỏ qua.
Không sống một cách vương giả tại Hải Phòng được nữa, mang theo mối
hận trong lòng, Dung “hà” vào TPHCM theo hai đàn anh của mình là Minh
“sứt” và Thành “chân” lập nghiệp giang hồ. Tuy nhiên, đi đến đâu cũng bị
Thắng cản mũi, niềm uất hận của Dung lại càng cháy bỏng. Im hơi lặng
tiếng hơn Dung nhưng Ngô Chí Thành tức Thành “chân” là đại ca giang hồ
thực sự của Hải Phòng. Thành không thích trống giong cờ mở, phô trương
thanh thế nhưng có thực lực trên giang hồ. Cu Lý, Cu Nên, Lâm “già”,
Dũng “Bắc Kạn”, Oanh “hà”, Dũng AK, Dũng “đui”, Dung “hà” đều sợ Thành
“chân” một phép.
Vào thời gian này, tại các vũ trường như Mưa rừng nhiệt đới, Đêm màu
hồng, Phi thuyền… hàng đêm, Thành ngồi uống rượu một mình. Hầu hết các
dân chơi, bảo kê có số má như Tài “ba đô”, Dũng “lợn”… đi qua đều phải
cúi chào lễ phép.
Năm 1995, Sơn “bạch tạng” bị phạt thi hành án tại trại tạm giam Thanh
Hà (Phú Thọ), tiếng tăm của hắn vang đến tai Năm Cam, lúc đó cũng đang
cải tạo tại đây. Hai người làm quen, và nhanh chóng trở thành cạ cứng
của nhau. Năm Cam rất quý Sơn “bạch tạng”, chúng kết tình huynh đệ. Ra
khỏi trại giam, Năm Cam tin tưởng giao cho Sơn quản lý nhiều sòng cá độ ở
thành phố, có việc gì quan trọng cũng đều gọi và giao trực tiếp cho
người em kết nghĩa này.
Trở thành đàn em thân tín của anh Năm, được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, Sơn trở thành cái gai trong mắt nữ quái Dung Hà.
Trước khi Sơn xuất hiện, Dung Hà được anh Năm sùng ái. Năm Cam từng hứa
giúp thị mở sòng bạc tại 17, phố Bùi Thị Xuân, TP HCM. Sòng bạc mở được
3-4 hôm, đang làm ăn thuận lợi, mỗi ngày thu về hơn 70 triệu đồng thì
bỗng nhiên vắng khách. Cho đàn em điều tra, Dung Hà biết Thắng “tài dậu”
cùng Sơn “bạch tạng” vừa từ Bắc vào, được Năm Cam tin dùng, giao cho
quản lý một số sòng. Vì vậy sòng bài của thị bị phong toả, số con bạc
lai vãng đến đây ít đi.
Để cứu vãn tình hình bi đát, Dung Hà đến xin được làm ăn cùng Năm Cam
tại sòng bạc ở quận 8, nhưng bị từ chối thẳng thừng. Mở sòng thì không
có khách, muốn chung sòng cũng không xong, Dung Hà càng nhảy dựng lên
khi phát hiện, trong khi từ chối lời đề nghị của thị, Năm Cam lại cho
Sơn chung sòng ở quận 8. Hơn nữa, Sơn không phải đóng “thùng tẩy”, được
hưởng 30% lãi thu được, đây là ngoại lệ trong giới giang hồ TP HCM. Thế
là bao nhiêu nỗi cay cú được trút lên đầu Sơn “bạch tạng”.
Biết Sơn có việc phải ra Hà Nội, Dung Hà tổ chức đàn em phục kích tại
khách sạn Las Vegas ở số 7 Lê Văn Hưu. Nhưng kế hoạch bị đổ bể vì Sơn
đã được báo trước nên không xuất hiện.
Về Sài Gòn, Sơn thưa lại mọi chuyện với ông anh kết nghĩa, Năm Cam
lập tức cho gọi Dung Hà để hỏi, thị chối đây đẩy. Để làm rõ chuyện, Năm
Cam tổ chức buổi đối chất tại nhà hàng Maxim giữa Thắng “tài dậu”, Sơn
“bạch tạng”, Dung Hà cùng hai người nữa. Hà tiếp tục không thừa nhận, vì
vậy Năm Cam đưa cho thị 3.000 USD với yêu cầu bỏ qua xích mích, và
không quên cảnh cáo Dung Hà nếu muốn lấy mạng Sơn “bạch tạng” thì phải
bước qua xác anh Năm.
Khi mâu thuẫn của Dung “hà” và Thắng “tài dậu”, Sơn “bạch tạng” lên tới
đỉnh điểm, Thành đã khuyên răn cô em đồng bóng của mình rất nhiều. Là kẻ
lọc lõi trên giang hồ, Thành hiểu độ nham hiểm và sự tàn bạo của đối
thủ. Thấy Dung không nghe, Thành liền bỏ đi Canađa sinh sống…
Khi Sơn “bạch tạng” và Thắng “tài dậu” bị đàn em Dung “hà” săn đuổi
thì Hạnh vẫn có những mối quan hệ mật thiết với giang hồ đất Cảng. Còn
Sơn bay vào TPHCM để “yểm bùa” đám giang hồ “Ba Ke” đang quấy nhiễu tại
các vũ trường, nhà hàng. Vào thời gian này, dân dao búa miền trong rất
ngại những tay anh chị từ Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội mò vào. Những cái
tên như Hưng “mi nhon”, Trường “xoăn”, Tuấn “tăng”, Thuỷ “lẩm”, Dũng
“heo”, Dũng “paléttin”… khiến dân giang hồ miền Nam toát mồ hôi hột.
Những trận huyết hận tương tàn của vài chục tên côn đồ miền Nam cùng
lắm chỉ làm đổ máu chút ít. Lâu lâu mới nhỡ tay đao khiến có kẻ vong
mạng. Nhưng khi giang hồ miền Bắc đã ra tay thì không tàn phế suốt đời
cũng hồn lìa khỏi xác. Với sở trường lạnh lùng như thế, giới hắc đạo
miền Nam ngại dân anh chị miền Bắc một vành. Vì vậy, Sơn “bạch tạng”, kẻ
cầm tinh con hổ lẫy lừng này cũng như hàng chục đàn em trung thành của
Sơn luôn là “bức tường thép” lấy le với giới hắc đạo Hải Phòng, Nam
Định…
Ngày 16/3/2002, Đội đặc nhiệm, Phòng Cảnh sát hình sự bắt Sơn ngay
tại đầu ngõ Lương Sử A và di lý ông trùm đao búa này vào miền Nam phục
vụ việc điều tra mở rộng các vụ án liên quan…
Phúc Bồ
Cho tới giờ, khi những tay anh chị như Sơn “bạch tạng”, Khánh “trắng”
đã “dựa cột”, đám giang hồ đất Hà Nội một thời, nay chỉ còn Nguyễn Thị
Phúc (Phúc “bồ”) quay trở lại với cuộc đời sau khi phải “bóc 11 cuốn
lịch”.
Vào những năm cuối của thập kỷ 1990, cái tên Phúc “bồ” và Khánh “trắng”
từng là nỗi kinh hoàng cho những người dân lành vô tội buôn bán ở khu
vực chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Núp dưới danh nghĩa những đội bốc xếp, vận
chuyển hàng hóa cho những người buôn bán, Phúc “bồ” và Khánh “trắng”
thực chất là những tên lưu manh sừng sỏ cầm đầu những băng nhóm “xã hội
đen” ngang nhiên lộng hành bắt nạt và chèn ép những dân lành buôn bán.
Bằng các thủ đoạn độc quyền vận chuyển, bốc xếp, thu tiền bến bãi, ép
giá, bắt phạt, đe dọa báo cán bộ thuế vụ, chúng đã thu tiền trái phép
đối với người kinh doanh buôn bán hoặc người từ địa phương khác đến giao
hàng. Thậm tệ hơn, chúng đã xâm phạm chỗ ở, bắt giữ người trái pháp
luật, cho vay nặng lãi, đòi nợ thuê, và tiến hành hàng chục vụ đâm thuê
chém mướn gây thương tích cho người dân vô tội. Tham gia giải quyết các
vụ mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân bằng “luật rừng”, cho đàn em khống
chế đe dọa buộc bên đối phương phải chấp nhận những điều kiện và luật lệ
do chúng đặt ra, băng nhóm của chúng đã khiến cho bao nhiêu người phải
điêu đứng.
Nếu như Khánh “trắng” là một sát thủ máu lạnh đội lốt một ông đội
trưởng đội bốc xếp có vẻ ngoài hào hoa lịch lãm và làm nhiều công tác từ
thiện để che mắt thiên hạ thì Phúc “bồ” lại là một người đàn bà “hung
dữ” trắng trợn cầm đầu băng nhóm “xã hội đen” thu nạp đám đàn em thân
tín là những tên lưu manh trộm cắp, côn đồ hung hãn từng vào tù ra tội.
Đàn bà dễ có mấy tay, mà đàn bà như Phúc “bồ” thì đàn ông dù có máu mặt
giang hồ cũng phải quy phục dưới trướng của thị.
Không đến mức chém giết người dã man, trắng trợn và thâm độc như
Khánh “trắng”, song với 21 tháng tồn tại, băng nhóm của Phúc “bồ” làm
mưa làm gió đối với bà con buôn bán ở chợ tạm Phùng Hưng và một số khu
vực lân cận quanh chợ Đồng Xuân. (Lúc đó chợ Đồng Xuân bị cháy nên chính
quyền lập chợ tạm Phùng Hưng cho bà con buôn bán). Đứng đằng sau với
vai trò chủ mưu và cầm đầu băng nhóm, Phúc “bồ” đã dựng người tình của
mình lên làm đội trưởng đội bốc xếp.
Thị lập ra các tổ bốc xếp nhỏ ở từng khu vực buôn bán các mặt hàng,
đưa những tên lưu manh lên làm tổ trưởng và đề ra mức tiền hằng ngày
phải nộp cho từng người, từng tổ, từng nhóm. Các đội viên phải tìm mọi
cách để đạt chỉ tiêu, nếu không Phúc “bồ” sẽ cho người đánh, hoặc không
cho làm nữa. Bằng cách đó, Phúc “bồ” và Khánh “trắng” thu nhập mỗi tháng
hàng trăm triệu đồng.
Phúc “bồ” và Khánh trắng” từng *ng độ nhau rất nhiều lần để dàn xếp
lãnh thổ hoạt động của băng nhóm. Nhiều vụ “thanh toán” nhau diễn ra khá
tàn bạo. Điển hình là vụ chém nhau giữa hai băng nhóm ở bốt Hàng Đậu mà
kết quả là người tình của Phúc “bồ” – đội trưởng đội bốc xếp của thị,
đã bị đàn em Khánh “trắng” lấy đi một mắt do bị chúng hắt axít. Sau
nhiều lần dàn xếp, cuối cùng khu vực hoạt động của hai băng nhóm được
xác lập. Khánh “trắng” cai quản khu vực chợ Đồng Xuân, Phúc “bồ” cai
quản ở các khu vực lân cận.
Tồn tại vỏn vẹn 21 tháng, có vẻ như khoảng thời gian ấy là quá ít so
với tiếng tăm lưu manh giang hồ nổi khắp Hà Nội của băng nhóm Phúc “bồ”.
Cuối cùng thì Phúc cùng các đệ tử cũng đã bị pháp luật trừng trị đích
đáng. Phúc “bồ” lĩnh án tù 11 năm ở trại 5 Thanh Hóa.
Khi còn bị “lưu kho” tại trại giam số 5 Thanh Hóa, lúc nào Nguyễn Thị
Phúc cũng được vài ba chục chị em chăm bẵm từng miếng ăn, giấc ngủ. Ở
đâu người đàn bà có nước da trắng, đôi mắt sắc lạnh như sói hoang, với
những chiến tích độc nhất vô nhị, cũng được xếp vào vị trí đại ca.
Nhưng tất cả sự cung phụng của các phạm nhân trong buồng giam vẫn
không thể khỏa lấp được nỗi nhớ nhà, nhớ chồng, con và cả người tình
cùng những ngày tháng coi trời bằng vung của thị. Nhiều lúc Phúc “bồ”
như điên dại, hết la hét lại khóc lóc một mình.
Cuối năm 2002 Phúc được ân xá ra tù. Không còn nhà cửa, nghề nghiệp,
được sự giúp đỡ của anh trai và cô em gái, chị ta mua được một căn nhà ở
phố Trần Khát Chân, mở hàng nước trà chén, sau đó chuyển qua buôn bán
mỹ phẩm và điện thoại di động.
Có lẽ cái gì muốn thì người đàn bà này cũng thực hiện được nhờ quá
khứ “thở ra khói nói ra lửa” của mình. Duy chỉ có một điều Phúc bất lực,
đó là không thể cứu được hai con trai thoát khỏi nàng tiên nâu. Trước
kia chuyên đi bắt chẹt người khác, nay Phúc “bồ” lại bị trắng tay bởi
chính những đứa con của mình.
Do quá ham làm việc và nghĩ ngợi nhiều, bước sang tuổi 49 (tháng 8-
2005) Phúc đã bị một cơn tai biến mạch máu não. Trong những ngày chị ta
vật lộn với cái chết tại bệnh viện, thì ở nhà 2 đứa con nghiện ngập lần
lượt mang đồ đạc đi bán. Mặc dù có con nhưng Phúc thường xuyên bị bỏ đói
và phải một mình vật lộn với nỗi đau thể xác.
Quá xót em, anh trai và em gái Phúc đã đưa chị ta về ngôi nhà nhỏ
trong ngõ 57 Hàng Bồ để chăm sóc. Phúc thêm một lần đau đớn vì 2 đứa
con, đứa phải vào trại cai nghiện, đứa thì đã chết trong một lần sốc
thuốc. Chị ta đã suy sụp hoàn toàn.
Chúng tôi tìm đến ngõ 57 Hàng Bồ. “Bà trùm” một thời lừng lẫy trong
giới giang hồ giờ ngồi bất động giữa chiếc giường sắt đen sì. Khi chúng
tôi ngồi xuống cạnh người đàn bà bệnh tật đó cũng không có chút phản ứng
nào. Trên khuôn mặt ngơ ngẩn chỉ duy nhất đôi mắt là phảng phất tia sắc
lạnh của một thời vùng vẫy.
Thấy khách lạ, chị giúp việc tên Thanh tất tả chạy về. “Các anh có
hỏi thì bà Phúc cũng chẳng biết trả lời đâu. Bây giờ bà ấy không nói
được gì, chỉ giơ tay ra hiệu thôi. Trước tôi cũng có mấy người chăm sóc
bà Phúc nhưng đều không chịu nổi vì bà ấy quá to béo và lại ăn uống
nhiều, bài tiết lắm, tính nóng không thích cái gì là ném đi ngay”.
Tôi hỏi: “Một ngày bình thường của bà Phúc thế nào? Chị Thanh thật
thà liệt kê: “Sáng sớm ngủ dậy phải đưa bà ấy vào nhà vệ sinh tắm rửa,
khắc phục hết hậu quả của một đêm tự do bài tiết. Sau đó đi mua đồ ăn
sáng đút cho ăn, rồi bật TV để tự ngồi xem, lúc đó tôi quay sang dọn
nhà, giặt quần áo. Trưa bà Phúc chỉ ăn phở, đến tối mới ăn cơm. Xưa bà
ấy ăn sướng quen, nên bây giờ đồ không ngon là vứt đi ngay.
Tuy không nói được nhưng thi thoảng hễ ai cho tiền là bà ấy giắt luôn
vào cạp quần”. Chị Thanh nói, ngoài những người thân và hàng xóm chạy
qua chạy lại hỏi thăm, thỉnh thoảng cũng có vài người tự nhận là đàn em
đến, vội vàng dúi vào tay chị Phúc ít tiền rồi đi ngay, nhưng càng ngày
càng thấy thưa dần. Chỉ có mấy anh công an khu vực thì vẫn đều dặn tới
thăm hỏi, động viên.
Nhìn người đàn bà đã đờ đẫn cả về thể xác lẫn tinh thần, một mình cô
đơn trong góc nhà, bao nhiêu ấn tượng về một Phúc “bồ” giang hồ khét
tiếng chợt mờ đi. Chỉ còn lại trong lòng chúng tôi một nỗi buồn. Trong
cuộc đời, dù cách này hay cách khác, có lẽ những người có quá khứ như
chị ta đều ít nhất phải một lần trả giá…
Hải Phòng
Dung Hà
Với những chiêu thức tinh khôn và không lạm dụng bạo lực, thị đã xây
dựng được một “đế chế” độc tôn, trật tự và khá an toàn cho thế giới tội
phạm ở phố cảng. Nhưng quá khứ đó đã được thay bằng cảnh “hỗn mang” từ
khi Dung “hà” chết. Vậy người đàn bà đó là ai?
Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu có ba “ả tố nga” bên dòng
sông Tam Bạc nước cả bốn mùa, Dung “hà” là út nhưng tính tình trầm lặng,
lạnh lùng và quyết liệt nhất. Nhà ở phố Trạng Trình gần chợ, gần sông
và gần bến xe nên tuổi dậy thì của Dung “hà” cũng là tuổi chập chững
trong giới cướp giật móc túi ở Hải Phòng.
Cũng là kẻ đa đoan nên mối tình đầu của Dung “hà” là một gã du côn ít
tên tuổi nhưng phong nhã tên là Hùng “chim chích” ở chợ Sắt. Hùng “chim
chích” trưởng thành qua các tăng tù “bất khuất” (những trại tù có nhiều
tội phạm nguy hiểm) nên hắn có những hình xăm hoa mỹ trên người. Ngập
vào ma túy nên bản lĩnh Hùng “chim chích” trở nên thấp hèn. Một người
“chí lớn” như Dung “hà” thì không thể coi đó là “tri âm”.
Chia tay Hùng “chim chích”, Dung “hà” yêu một đại bàng đầy số má, đẹp
trai và cũng tên là Hùng – Hùng “cốm”. Dung “hà” sẵn cơ mưu, nhìn xa
trông rộng, không cầu lợi nhỏ, không chấp chuyện vặt nên đôi uyên ương
vùng vẫy trong giang hồ với kẻ tung người hứng, kẻ đấm người xoa rất ý
hợp tâm đầu. Hùng “cốm” lãnh án dựa cột bởi tội giết người. Hận vì tình
vỡ cộng với máu giang hồ, Dung “hà” tổ chức một cuộc cướp tù với kế
hoạch cực kỳ táo bạo, công phu và đầy mưu mẹo.
Quà tắc tế được giấu một quả lựu đạn sẽ tìm một phương án khả dĩ nhất
để đưa vào tới tay Hùng “cốm”. Một chiếc xe tải rách nát chuyên chở bắp
cải, su hào sẽ đến gần cổng trại giam. Lựa thời điểm, Hùng “cốm” sẽ
dùng lựu đạn cướp khóa, khống chế quản giáo, tháo thân. Lựu đạn cay, hỏa
mù và các phương tiện đánh lạc hướng sẽ được đám đệ tử phát huy. Xe tải
chở Hùng “cốm” phóng thẳng.
Hàng chục xe máy, công nông, xe thồ… sẽ có nhiệm vụ cản đường tại
những trục chính đã được tính rằng xe công an có thể rượt đuổi. Hùng
“cốm” chạy ra bờ biển. Xuồng nhỏ, xuồng lớn phục sẵn tại các điểm hẹn sẽ
đưa kẻ đào tẩu đến phao số không và đi Hong Kong. Các tình tiết ngoại
phạm, các phương án xóa dấu vết… được tính toán từng chi tiết.
Tuy nhiên kế hoạch bất thành. Người tình vẫn phải đền tội nhưng Dung
“hà” đã khiến tất cả những tên côn đồ hữu dũng vô mưu hay những kẻ to
mắt sợ ma phải cúi đầu bởi không chỉ vì lá gan, mưu sâu mà cả vì là liệt
nữ hành hiệp “trọng nghĩa” hơn bất kỳ một đại ca nào.
Câu chuyện trên không được Công an Hải Phòng xác nhận nhưng nó đã trở
thành một “huyền thoại” trong giới giang hồ đất cảng. Trong tất cả
những trùm giang hồ Hải Phòng trong ba chục năm qua thì Dung “hà” được
tôn trọng, nể vì nhất. Điều đó khiến đàn em thị trung thành nhất và đông
đảo nhất.
Để được như vậy, Dung “hà” luôn tỏ ra độ lượng, thưởng phạt phân minh
“ân đức” bao trùm lên thế giới giang hồ. Thị luôn tránh va chạm với dân
thường bằng bạo lực. Trái lại, trong con mắt nhiều người, thị còn là
một người đàn bà tốt bụng, hảo tâm. Đối với khu xóm, ai hoạn nạn ốm đau,
thai sản đều được thị thăm hỏi, quà cáp.
Ngày lễ tết hay đi du lịch, chùa đền về, thị thường chia lộc, chia
vui với bà con khu phố. Năm 1995, khi Dung “hà” bị công an bắt, có tới
45 người dân là bà con cùng khu phố thị ở đã viết đơn kêu oan cho Dung
“hà”.
Không nuôi gái bán dâm, không ma túy, không đòi nợ thuê, không buôn
lậu hay vận tải mà Dung “hà” chỉ tập trung “thâm canh” bằng cờ bạc và
“làm luật” ở một vài khu chợ, bến bãi. Lựa chọn những ngạch làm ăn này
vừa nhẹ nhàng, vừa ít va chạm lại thu nhập cao nên thị mở nhiều sòng bạc
ở nhiều địa chỉ khác nhau. Tuy nhiên sới bạc tại nhà vẫn là qui mô nhất
với đại gia đình tham gia.
Sau khi triệt phá hàng loạt băng nhóm tội phạm có tổ chức, năm 1995
Công an Hải Phòng bắt Dung “hà” về tội tổ chức đánh bạc và lãnh án 7 năm
tù giam. Sau bốn năm thụ án, Dung “hà” được đặc xá. “Binh lực” và tiền
bạc vẫn mạnh nhưng cửa làm ăn ở Hải Phòng đã hết, Dung “hà” tìm vào Sài
Gòn và đã bị Năm Cam cho người hạ sát.
Vinh “lì” kể: “Lúc đó khoảng 9-10 giờ tối, bọn em đang chơi xóc *a ở
phố Cát Dài thì một anh có điện thoại. Vừa nghe được mấy câu ông ấy rống
lên như bò bị cắt tiết, ném điện thoại xuống chiếu, mặt không còn hạt
máu: “Chúng mày ơi chị mất rồi! Chúng nó bắn chị Dung chết rồi!”.
Cả chiếu bạc hơn 40 người nháo nhác như gà mất mẹ. Một anh già có vẻ
cứng bóng vía nhất quát lên: “Ai bảo mày? Ai nói chị chết?”. Liên tục
những cuộc điện thoại gọi đến gọi đi. Nhiều tiếng khóc thảm như trẻ
con”.
Đêm ấy, thành phố Hải Phòng như không ngủ. Tiếng khóc, tiếng chửi, tiếng
bàn tán xì xào lẩn khuất khắp nơi trong thành phố. Ngôi vị cao nhất của
giang hồ đất cảng đã chết không một lời trăng trối, đã bị hạ sát bởi
một kẻ lạ mặt giữa lúc thị đang ngự trị giữa bầy đàn đệ tử. Lúc đó lòng
thương xót và cơn uất hận của đám ong ve ngùn ngụt như lửa nhưng tất cả
đều không biết ai là thủ phạm.
Thậm chí ban đầu ngay những đệ tử tháp tùng Dung “hà” vào Sài Gòn
cũng không biết ai là kẻ chủ mưu hại Dung “hà”. Nhiều đầu lĩnh Hải Phòng
đã thu xếp vào Nam đòi nợ máu nhưng không thể lên đường vì không rõ đối
thủ. Vinh “lì” nói không biết là do quá khôn ngoan hay may mắn mà Năm
Cam đã không lộ diện giết Dung “hà”.
Bởi nếu giang hồ đất cảng biết điều đó sớm thì dù Năm Cam có nhiều
tiền và hùng mạnh đến đâu chắc chắn cũng không thể tránh khỏi thảm họa
như Sìn “cơm” thời mới ở Hong Kong về.
Thi thể Dung “hà” đã được tắm gội, khâm liệm, cúng tế bằng những nghi
thức trang trọng và ngay lập tức được đưa vào quan tài kẽm chở về Hải
Phòng trong chuyến bay sớm nhất. Giang hồ đất cảng đã tiễn đưa “người
chị” đoản mệnh về nơi chín suối bằng một đám tang kỳ quái chưa từng có ở
VN.
Từ mờ sáng trên các tuyến phố lớn và đại lộ huyết mạch từ khu trung
tâm thành phố (bến xe Tam Bạc, gần phố Trạng Trình, nhà Dung “hà”) dẫn
ra nghĩa trang Ninh Hải nằm ở ngoại ô hướng đông nam đã xuất hiện hàng
dãy dài những thanh thiếu niên nam khôi ngô tuấn tú mặc đồng phục comlê
đen, kính đen, cài dải tang trên áo đứng nghiêm cẩn dọc hai bên để dẹp
đường, cấm tất cả các loại xe hoạt động.
Tiếng trống phách, thanh la vang lên não nuột nhưng rất ồn ã từ phố
Trạng Trình. Đi đầu đám tang là những cô bé, cậu bé mặc đồ trắng, cầm
cờ, hoa, câu đối đi chậm rãi, ngay ngắn. Phía sau họ là một cái kiệu gỗ
có ảnh người chết, bát hương và một số đồ cúng tế do những người đàn ông
lực lưỡng cáng trên vai.
Vòng xung quanh kiệu là rất đông nhà sư, thầy cúng, ông đồng bà cốt
vừa đọc kinh, lần hạt, nhảy múa và hát. Phía sau là những đoàn người
trong tang phục đen mà chủ yếu là đàn ông với rất nhiều vòng hoa lớn.
Hai bên đường là hai hàng xe hơi màu đen toàn loại sang trọng rì rì lăn
bánh theo bước chân người.
Một chiếc quan tài phủ hoa rực rỡ được công kênh bằng những cánh tay
người cao *t trên đầu. Đám tang ngày một thêm đông, người đưa ma kéo dài
hàng cây số. Các loại phương tiện lớn nhỏ đều phải dừng lại dưới sự chỉ
huy của những thanh niên mặc đồ đen. Dân đổ kín hai bên phố và theo
chân quan tài đi nhiều tiếng đồng hồ ra tới nghĩa trang.
Tất cả những tên du đãng ở Hải Phòng lúc đó, dù trong đời chưa một
lần được “chị” biết đến, thậm chí chưa được nhìn thấy “chị” cũng tự nhận
mình là em, là cháu Dung “hà” mà khóc lóc thảm thiết…
Đám tang qui mô, long trọng và kỳ lạ chưa từng thấy ở thành phố này do
một đại ca đầy danh tiếng ở Hải Phòng cũng đang lập nghiệp ở Sài Gòn là
Minh “sứt” đạo diễn (Minh “sứt” nguyên là công an Hải Phòng, sau bị đưa
ra khỏi ngành, vì buôn ma túy hắn bị Tòa án nhân dân TP.HCM xử chung
thân).
Cu Nên
Dạo ấy Hải Phòng hầu như tháng nào cũng án mà toàn những vụ ghê gớm
cả. Những cái tên Cu Nên, Lâm “già”, Dung “Hà” khi ấy làm nhiều người
dân khiếp sợ, không dám *ng, cũng chẳng dám tố cáo bởi chúng là những
tên cầm đầu của ba ổ nhóm tội phạm khét tiếng.
Riêng Cu Nên thì chơi trội hơn cả.
Nên sinh năm 1957, người gốc Hải Phòng, là con trai độc nhất trong
một gia đình có 4 chị em vì anh trai của Nên đã hy sinh trong kháng
chiến chống Mỹ. Nên cao ráo, trắng trẻo nhưng có bộ mặt sát nhân, lạnh
lùng và lỳ lợm.
Trong lịch sử tội phạm ở Việt Nam có lẽ Phạm Đình Nên là kẻ giữ kỷ
lục về tiền sự với 22 tiền sự, trong đó đa số là về tội cướp và cố ý gây
thương tích. Năm 1987, sau khi đi tập trung cải tạo về, vợ chồng Phạm
Đình Nên chia tay và Nên trốn sang Hongkong. Ở trại tị nạn Hồng Kông 2
năm, Nên lấy vợ hai, sinh con rồi đến năm 1989 thì phải hồi hương.
Trở lại Hải Phòng, Nên thực sự trở thành một giang hồ cộm cán chuyên
làm giàu bằng các sòng bạc. Chỉ trong vòng vài năm, với những đồng tiền
bẩn thỉu kiếm được từ các hoạt động tội phạm, Nên trở thành một kẻ giàu
có. Lúc đó, trong khi chiếc xe máy còn là tài sản lớn mà nhiều công chức
cả đời ky cóp chưa mua nổi thì Phạm Đình Nên đã có xe hơi. Ngoài ngôi
nhà 3 tầng to vật vã ở số 112 đường Lạch Tray, con đường đẹp và đắt giá
nhất Hải Phòng, Nên còn bỏ tiền ra mua liền một lúc 5 căn hộ ở mặt đường
ngay sát cạnh nhà Nên để phá bỏ làm xưởng sửa chữa ôtô.
Ngôi nhà 112 đường Lạch Tray trong một thời gian dài là hang ổ của
băng tội phạm do Phạm Đình Nên cầm đầu. Trong nhà Nên, ngoài mẹ Nên, vợ
chồng Nên và 3 đứa con lúc nào cũng có hàng chục tên đàn em túc trực, để
bảo vệ tính mạng cho chú Nên như lời khai của Đinh Văn Lĩnh, tức Linh
cu, một tay chân thân tín của Phạm Đình Nên.
Những tên đàn em này được Nên nuôi ăn hàng ngày, được Nên sắm sửa cho
các vật dụng, trang sức đắt tiền, được Nên cho tiền tiêu và để đổi lại
thì bọn chúng phải bắn, giết, cướp bất cứ lúc nào khi Nên ra lệnh.
Linh “cu” là một ví dụ. Nhà ở phố Lý Thường Kiệt, Linh nghiện ma túy
từ năm 15 tuổi, mỗi ngày đốt khoảng 500 nghìn đồng. Cha mẹ Linh bỏ nhau,
Linh ở với bố, một người cũng khá tiếng tăm trong giới giang hồ Hải
Phòng. Cha Linh do có mối quan hệ thâm tình với Phạm Đình Nên từ khi Nên
mới chỉ là tay trộm cắp vặt nên mới gửi Linh xuống ở nhà Nên để nhờ
chú cai nghiện và bảo ban cháu (?!).
Ở nhà Nên, Linh không những không cai được nghiện mà còn được huấn
luyện thành tay đao búa. Sau này, trong tất cả các phi vụ cướp giết để
bảo vệ danh dự cho chú Nên Linh “cu” đều có mặt và là kẻ hành động
chính. Tuy nhiên, khi băng tội phạm Phạm Đình Nên bị đưa ra xét xử, Linh
“cu” mới 16 tuổi nên y không bị kết án tử hình mà chỉ phải chịu hình
phạt cao nhất đối với trẻ vị thành niên là 20 năm tù giam.
Khi thi hành án ở trại giam Nam Hà, Linh đã đánh chết một đồng phạm
cùng buồng giam và tiếp tục bị xử phạt tù chung thân. Một thời gian sau,
Linh “cu” trốn trại. Khi bị lực lượng cảnh sát trại giam truy bắt, Linh
“cu” đã bắn trọng thương Đại úy Nguyễn Văn Phục, cán bộ trinh sát của
Cục Cảnh sát trại giam. Với tội trạng này, Linh “cu” đã bị tuyên án tử
hình.
Không giống như Linh “cu”, Đinh Văn Tuyển lại trở thành tay chân đắc
lực của Phạm Đình Nên bởi sự lóa mắt vì tiền bạc. Tuyển sinh năm 1967,
đẹp trai, cao to. Nhà Tuyển ở phường Vạn Hương, thị xã Đồ Sơn. Cả gia
đình Tuyển làm nghề đi biển. Tuyển cũng xuất cảnh trái phép sang
Hongkong và ở cùng trại tị nạn với vợ chồng Phạm Đình Nên. Sau này khi
đã hồi hương, Tuyển không muốn quay về với nghề đi biển vì ngại khổ.
Vì thế, Tuyển đã tìm đến với Phạm Đình Nên và chỉ một thời gian sau
Tuyển cũng được huấn luyện thành một tay đao búa. Theo các tài liệu
trong hồ sơ vụ án còn lưu trữ tại Công an Hải Phòng thì trong tất cả 8
vụ cướp, giết, cố ý gây thương tích do Phạm Đình Nên chỉ huy, Tuyển và
Linh cu thực hiện tội phạm “tích cực” nhất.
Sẵn có trong tay tiền bạc, vũ khí và cả một đám tay chân sát thủ,
Phạm Đình Nên lộng hành như một ông trùm đao búa. Giữa ban ngày Nên xông
vào tận trụ sở Công an phường Lạch Tray, nơi gia đình Nên cư trú để
giải cứu cho đồng bọn khi tên này bị công an phường bắt giữ vì có dấu
hiệu vi phạm pháp luật. Không chỉ thế, Nên còn đe dọa sẽ bắn và tạt axít
vào mặt phó trưởng công an phường.
Chỉ vì một xô xát nhỏ giữa gia đình chị ruột Nên và người hàng xóm,
Nên đã cho đàn em đánh trọng thương một cán bộ của Ban Tuyên giáo Thành
ủy Hải Phòng. Thậm chí ban đêm nhà Nên có trộm, một người đi đường không
đuổi trộm hộ Nên cũng bị Nên sai tay chân ra đánh cho sây sẩm mặt mày.
Một tối gia đình Nên đang ăn cơm bỗng thấy có ai đó bắn vào cửa. Đoán
đó là đám tay chân của Lâm già, lập tức Nên sai Linh “cu” và Tuyển, mỗi
tên mang một khẩu súng đến tận cửa nhà Lâm “già” nã liền lúc hàng chục
phát đạn vào nhà để dằn mặt.
Lần khác, Linh “cu” đi chơi xô xát với một thanh niên tên là Nguyễn
Văn Cường. Linh gọi điện về báo cho Nên, lập tức Nên bảo Tuyển và mấy
tên đàn em mang súng tới “giải quyết”. Nên bảo Tuyển cứ bắn chết thằng
ấy cho tao và Tuyển đã nhằm vào Cường nổ hai phát súng nhưng may là
Cường không trúng đạn. Hậm hực vì không giết được Cường, Nên bảo Tuyển
đi đến nhà Cường lấy báng súng đập vào đầu bố Cường cho bõ tức (?!).
Khi cháu của Nên va chạm xe với một người đi đường, Nên sai Linh
“cu”, Tuyển và một vài tên khác đi cùng Nên để xử lý. Tới nơi theo lệnh
của Nên đám đàn em này không chỉ đâm trọng thương bạn của người đàn ông
đã va chạm với cháu Nên mà khi người này phải vào Bệnh viện Việt – Tiệp
cấp cứu, Nên còn cho tay chân theo vào tận bệnh viện để tiếp tục đâm.
Anh Trần Anh Tuấn, nhà ở Hồ Sen, con trai độc nhất của một người
thương binh mù, bạn của người đàn ông nói trên khi hay tin bạn mình bị
cấp cứu đến thăm đã bị Linh “cu”, Tuyển và đám đàn em của Phạm Đình Nên
đâm chết ngay tại nhà gửi xe của bệnh viện. Vụ án này đã gây căm phẫn
cao độ trong quần chúng nhân dân thành phố Cảng…
Chỉ vài tháng sau khi đảm nhận trách nhiệm Phó giám đốc Công an thành
phố phụ trách cảnh sát, Đại tá Trần Đồn đã có trong tay toàn bộ hồ sơ
về tội trạng của băng tội phạm Phạm Đình Nên. Trong khi làm án, ông luôn
bị ám ảnh bởi hình ảnh người thương binh mù cả hai mắt trong nỗi đau
mất con.
Tờ mờ sáng ngày 15/3, hàng đoàn xe ôtô của Công an Hải Phòng được hóa
trang bằng các biển số xe Hà Nội đã đổ quân xuống tiền sảnh của Cung
Văn hóa hữu nghị Việt – Tiệp, để từ đây hàng trăm cán bộ chiến sĩ thuộc
các lực lượng cảnh sát điều tra, cảnh sát hình sự, cảnh sát bảo vệ… đã
bao vây chốt giữ ở tất cả các điểm xung quanh ngôi nhà 112 Lạch Tray.
Đúng 10h30, ông ra lệnh cho các lực lượng vây bắt từ các vị trí phục
kích đồng loạt đột nhập vào nhà số 112. Công an đã bắt giữ Phạm Đình Nên
cùng 6 tên đồng bọn, thu 10 nghìn USD cùng nhiều trang sức bằng vàng.
Khám xét nhà Nên và khu vực hầm ở phía sau nhà thu giữ 1 súng tiểu
liên, 3 súng ngắn, 47 viên đạn, 1 quả lựu đạn và nhiều lê, kiếm. Trận
đánh nhanh, gọn, không phải nổ súng, đảm bảo an toàn cho lực lượng công
an và nhân dân xung quanh. Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã
gửi điện khen Công an Tp. Hải Phòng.
Nhân dân thành phố đổ ra đường chào đón lực lượng công an. Hoa và thư
khen của quần chúng nhân gửi đến Công an thành phố nhiều vô kể. Phạm
Đình Nên sau đó bị tuyên án tử hình.
Trong những ngày chờ thi hành án, Phạm Đình Nên đã làm thơ gửi vợ, ao
ước được trở về với cuộc sống nghèo khó mà lương thiện: “Đêm lạnh trong
tù anh nhớ về dĩ vãng/ Nhớ vợ hiền và đứa con thơ/ Nhớ mái nhà tranh
dột nát năm nào/ Giờ thân tội tù như chim *g cá chậu…
Lâm " già "
Mặc dù ra tù với trọng lượng 27kg, nằm bẹp trên cáng vì bệnh lao
kháng thuốc hành hạ, nhưng Lâm “già” vẫn thấy số mình còn “hên”, bởi bạn
bè, chiến hữu trên chiếu giang hồ cùng thời với Lâm như Năm Cam, Khánh
Trắng, Dung Hà, Cu Nên giờ đều đã xanh cỏ.
Trong ngôi nhà rộng mênh mông mặt tiền phố Lê Lợi, TP Hải Phòng, một
chân kiềng trong thế tam trụ của giang hồ đất Cảng thập niên 90 – Lâm
“già” chậm rãi kể lại những tháng năm bão tố của cuộc đời mình. Và, cũng
chính cái giọng nhè nhẹ, từ tốn ấy, khác xa với kiểu ăn nói ngông
nghênh, thét ra lửa hồi nào, Lâm khát khao hướng về bến thiện cho những
ngày sắp tới…
Quyết chí làm giàu
Những năm thập niên 90, chiếu giang hồ Hải Phòng được thống lĩnh bởi
thế kiềng 3 chân: Lâm “già” – Dung “hà” – Cu Nên. Trong đó Dung “hà”
khôn ngoan xảo quyệt, ẩn mình để thống lĩnh giang hồ. Cu Nên thì khoái
dùng vũ lực để nổi đình nổi đám, khuyếch trương thanh thế. Chỉ có Lâm
“già”, tức Ngô Thế Lâm (SN 1956 ) là người rất nhạy bén, thức thời và
hơn hẳn hai đối thủ của mình ở chỗ biết lấy tội phạm để làm kinh tế và
ngược lại, lấy kinh tế nuôi tội phạm.
Thời trai tráng, Lâm phụ giúp mẹ ở chợ Sắt, Hải Phòng. Cuộc đời Lâm
chỉ thực sự rẽ lối khi hoàn tất việc thụ án trong trại giam về tội trộm
cắp tài sản và về làm bốc vác tại cảng cá Máy Trai. Khi ấy, Lâm 31 tuổi.
Và, cũng từ ngày ấy, giang hồ gọi đặt cho Lâm biệt hiệu Lâm “già” bởi
chẳng biết bệnh tật thế nào mà mặt Lâm nhăn nheo như ông lão tuổi 60.
Vốn thông minh, nhanh nhẹn nên Lâm đã được một ông chủ tổ hợp đánh
bắt cá quý mến, ưu ái dành cho công việc tìm người khuân vác hàng, đồng
thời tìm mối tiêu thụ hải sản tươi sống, nhờ đó mà Lâm giàu lên nhanh
chóng.
Có tiền, Lâm móc ngoặc với các thủy thủ viễn dương buôn lậu hàng điện
tử, xe máy, đồ gia dụng. Những năm 1990, xe mi-ni Nhật, xe cúp kim vàng
giọt lệ, quạt điện là những thứ tài sản được coi là rất giá trị trong
gia đình… được Lâm đánh cả container với giá rẻ mạt rồi phân phối cho
khắp các thành phố lớn ở miền Bắc như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh… Nhờ
buôn lậu, đã giàu lại càng giàu hơn, Lâm lại bỏ tiền đầu tư 11 chiếc
tầu đánh cá tải trọng lớn đánh bắt xa bờ, rồi đứng ra thu mua, tiêu thụ
sản phẩm. Tiếp đó, Lâm đầu tư một đội quân xích lô du lịch chuyên chở
khách nước ngoài đến thăm quan thành phố Cảng, đồng thời kiêm luôn việc
phục vụ đám cưới, đám hỏi. Đã có lúc, đội quân xích lô này lên đến hàng
trăm chiếc và tất cả các khách sạn trong thành phố đều được Lâm bao thầu
việc chở khách đi tham quan, dã ngoại.
Đại bàng gãy cánh
Càng đầu tư nhiều lĩnh vực, Lâm càng lôi kéo được nhiều đàn em, đệ
tử. Và câu chuyện về đối đãi với đàn em của Lâm đến giờ vẫn được giới
giang hồ Hải Phòng truyền tụng. Lâm không chỉ tạo công ăn việc làm mà
còn không thu bất cứ một khoản phí nào của đàn em, y còn luôn tỏ ra hào
phóng mỗi khi gia đình nào đó có chuyện chẳng lành.
Vì vậy, xung quanh Lâm luôn có nhiều đệ tử trung thành, trong đó có
khá nhiều người từng có tiền án, tiền sự. Và tất nhiên, cũng nhờ những
đệ tử này mà công việc làm ăn của Lâm luôn được thuận lợi, vì hễ có bất
cứ một đối thủ nào muốn cạnh tranh với Lâm thì bằng mọi cách, đám đệ tử
ép bằng được đối thủ của Lâm phải “chết yểu”.
Biết thế nào công an cũng sờ gáy trước sự giầu có bất thường của
mình, nên Lâm quyết định “rửa tiền” bằng cách đấu và trúng thầu hồ đào
Lạch Tray rộng 13ha để thả cá và xây dựng khu du lịch sinh thái. Nhưng
thực chất là một mũi tên trúng hai mục đích: vừa qua mặt công an, vừa
xây dựng tại đây một kho tập kết hàng lậu lớn nhất Hải Phòng thời bấy
giờ. Ngoài ra, Lâm còn trang bị một dàn xe ô tô 4 chỗ để chuẩn bị thành
lập công ty taxi đầu tiên ở miền Bắc.
Tuy nhiên như đã nói ở trên, trên chiếu giang hồ TP Cảng ngày ấy tựa
thế kiềng ba chân nên Lâm càng ăn nên làm ra, băng nhóm Cu Nên càng sợ
bị lép vế. Vì vậy, mặc dù chẳng tranh giành đất làm ăn, nhưng thi thoảng
Cu Nên lại cho đàn em nghễu nghện vác súng đến trước nhà của Lâm để…
dằn mặt. Sau mỗi lần như vậy, Lâm lại cho đàn em đến tận nhà riêng của
Cu Nên xả cả băng AK để trả đũa, khiến Dung “hà” phải nhiều phen đứng ra
giảng hoà.
Cũng trong một trận dằn mặt nhau kiểu ấy, một đàn em thân tín của Lâm
bị trọng thương, khiến Lâm điên tiết cho đàn em đi trả thù, xong vẫn
chưa nguôi giận. Trước đó, y đã bị công an “rung giật” về chuyện sẽ đấu
tranh triệt để với những ổ nhóm tội phạm xã hội đen như của Lâm, khiến y
đau đầu tìm lối thoát.
Thấy đại ca buồn bã, một đệ tử đã hiến kế phải “giải đen” bằng cách
phá trinh con gái (tên này đã đi bắt cóc một bé gái 14 tuổi phụ giúp nhà
hàng bên cạnh hồ cá của Lâm về dâng tặng đại ca, sau đó do không bịt
miệng được bà chủ nhà hàng bằng tiền và vàng, đàn em của Lâm đã ra tay
“xử lý” người này – PV). Và chính kế sách sai lầm này của đàn em đã
khiến Lâm phải vào “bóc lịch” trong tù với mức án 16 năm tù giam vì hai
tội: giết người và xâm hại tình dục vị thành niên.
Hạnh phúc lớn nhất là vẫn được chăm nom mẹ già
Chúng tôi gặp Lâm “già” tại nhà riêng khi đại ca giang hồ này vừa
được trả tự do. Một trong tam trụ của giang hồ Hải Phòng một thời giờ đã
là ông lão 60, dáng người nhỏ thó, gầy gò nhưng giọng nói có vẻ cởi mở
hơn. Bấm đốt ngón tay, Lâm “già” tính đã bóc lịch trong trại giam đúng
10 năm, 6 tháng, 27 ngày.
Lần lượt chuyển từ trại Xuân Nguyên (Hai Phòng) qua Trại 5 (Thanh
Hoá) rồi vòng về Phú Sơn (Thái Nguyên), ở bất cứ trại nào khi Lâm đến,
đều được các đàn em đang thụ án tại đó đón tiếp tử tế. Có nhiều kẻ tứ
chiếng giang hồ không ở Hải Phòng nhưng nghe danh Lâm “già” cũng đều bày
tỏ thái độ kính nể.
Tuy nhiên căn bệnh lao kháng thuốc đã vắt kiệt sinh lực của Lâm. Ngày
được đặc xá, Lâm chỉ nặng 27kg, hai chân gần như liệt, nên đành phải
nằm trên cáng để vợ con đưa về. Về nhà, được một số đàn em, những người
từng mang ơn Lâm ngày trước giúp đỡ về tài chính để Lâm chạy chữa bệnh
tật. Khi gặp chúng tôi, Lâm cho biết vừa trả bình oxy được 3 giờ đồng
hồ, tức là đã qua cơn nguy kịch.
Tuy nhiên căn bệnh lao kháng thuốc vẫn phải điều trị. Mỗi tháng, chỉ
tính nguyên tiền thuốc đã mất gần 5 triệu, nhưng Lâm không phải lo, vì
khoản này đã có một đàn em xung phong chịu trách nhiệm. Một số đàn em
khác xung phong “trả lương” người 5 triệu, người vài ba triệu hàng tháng
cho “anh Lâm” để… tiêu vặt. Những người này sẵn sàng trải chiếu hoa mời
Lâm đến làm việc tại công ty mình nhưng Lâm đều từ chối.
Chia sẻ với chúng tôi, về tương lai của gia đình, Lâm cho biết, mặc
dù của nả đã đội nón ra đi hết nhưng điều Lâm mừng nhất là ba cô con gái
xinh đẹp đã trưởng thành, thông minh, sắc sảo. Mẹ già tuy hơi lẫn một
chút nhưng ông ta vẫn còn có cơ hội được cùng vợ chăm sóc.
Hiện kinh tế gia đình đang trông vào quán bún ngan buổi sáng rất đông
khách của vợ. Nếu chỉ mưu cầu một cuộc sống bình thường, thì số tiền vợ
kiếm được cũng đủ để cả gia đình sống tằn tiện qua ngày. Tuy nhiên,
theo Lâm thì ông ta không muốn phải sống dựa vào vợ, lòng tốt của mọi
người. Chính thế, Lâm bảo, chỉ cần đợi sức khoẻ khá lên một chút, Lâm sẽ
lại xông ra thương trường để kiếm sống.
Kế hoạch của Lâm có thể là sẽ bán ngôi nhà rộng thênh thang ở mặt phố
Lê Lợi, mua một ngôi nhà nhỏ hơn để lấy vài tỷ dôi ra đó làm vốn kinh
doanh. Tất nhiên, lần này sẽ là làm ăn đúng đắn, không vi phạm pháp
luật, vì theo nhận định của Lâm thì bây giờ mới là thời điểm vàng của
thương gia.
Sài Gòn
Đại Cathay
Hình ảnh của Đại Cathay cứ lẩn vẩn mãi, rảnh rỗi xem lại những câu
chuyện về Đại Cathay với mái tóc bồng bềnh, quần Jean, giày cao cổ, trên
môi không rời điều thuốc, Zippo, … Những gì mà Đại Cathay đã tạo dựng
chỗ đứng của mình trong giới giang hồ thật khác biệt. Ở đó sự liều lĩnh
không được đánh giá cao bằng lối sống “tình nghĩa” đáng để suy ngẫm…
Đại Cathay : sinh ra để làm TRÙM của những thằng trùm
Nếu ai có theo dõi vụ án của Năm Cam thì chắc k0 ngạc nhiên khi nghe
đến tên Đại Cathay, đại ca của Lâm chín ngón – kẻ đã bị nữ quái Dung hà
tạt axit. Bài đầu của “Huyền thoại” giang hồ phương Nam xin post nhân
vật này đầu tiên vì ảnh của Đại Cathay trên báo thực sự ấn tượng bởi vẻ
điển trai cũng như nụ cười nhếch khóe môi của kẻ sinh ra để làm Trùm của
những ông trùm này.
Ngày ấy, thời Mỹ Ngụy, danh tiếng của người đứng đầu “tứ đại giang
hồ” là Đại Cathay được cả miền Nam đều biết tiếng, nhất là sau này qua
cuốn tiểu thuyết rẻ tiền của nhà văn Duyên Anh “điệu ru nước mắt”. Trận
hỗn chiến giữa Đại Cathay với Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế đã
đưa Đại lên đứng đầu nhóm này. Trận chiến kinh hồn với băng * người Hoa
của Tín Mã Nàm đã cho Đại Cathay lập nên một đế chế mà khắp Sài Gòn
chẳng có một băng nhóm nào dám đối đầu. Cả một bộ máy quân sự khổng lồ
của miền Nam cũ với sự hà hơi tiếp sức của quan thầy Mỹ há sợ một tên du
đãng Đại Cathay đến nỗi tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ phải “xuống nước”
mời ra làm nhân viên công lực quốc gia hay tướng cảnh sát Sáu Lèo Nguyễn
Ngọc Loan mời làm đại úy cảnh sát. Xem ra báo chí văn chương đề cao gã
du đãng này quá?
Ngay cả đám giang hồ cộm cán, đám đàn em tin cẩn cũng không ai biết
hắn con ai, tên thật là gì. Chính Đại Cathay cũng… không biết tên thật
của mình nốt. Hơn chục lần bị điệu về bót cảnh sát, Đại tự khai cho mình
hơn chục lai lịch khác nhau. Theo đó, cha của hắn lúc là Lên Văn Cự,
lúc lại là Trần Văn Trự… Mẹ của Đại Cathay cũng khá… nhiều tên, lúc là
Hương, lúc là Duyên, sống hay chết thì “có trời mà biết”. Nói tóm lại,
như Đại Cathay thường tự nhận, gã là một thằng… con trời có lẽ xuôi tai
hơn cả.
Kì thực, Đại tuổi Thìn, sinh năm 1940. Theo tìm hiểu của chúng tôi,
mẹ của Đại tên gì không rõ, chỉ biết người xung quanh thường gọi là bà
Sáu. Còn cha Đại thì chính tên là Lê Văn Cự, vốn cũng là một tay giang
hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Sau năm 1945, Hai Cự tham gia kháng
chiến, trở thành lính của “Mười ban tự vệ công tác thành”, sau đó bỏ vào
chiến khu rừng Sác đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Ba Dương
(tức Dương Văn Dương). Đại sinh ra giống cha như đúc nhưng tuổi thơ rất
ít được gần cha. Thuở nhỏ, gã sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân,
Khánh Hội (nay la Đoàn Văn Bơ Quận 4). Cả cha lẫn mẹ của hắn đều nghèo,
làm nghể chẻ củi thuê cho một vựa củi nằm bên kia Cầu Mống, cạnh chợ cũ,
Quận 1. Đại thường xuyên trốn học chạy sang chơi vơi đám trẻ con bụi
đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói, dù khuôn mặt rất ngầu, tính phóng
khoáng, lại rất “lì đòn”, những đức tính được “thừa kế” đầy đủ từ cha đã
giúp Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh mến mộ. Mới 10 tuổi, gã đã
thường xuyên luồn lách vào các chợ, sạp hàng xung quanh, ăn trộm dưa,
chuối về chia cho chúng bạn.
Sau 1945 cha Đại tham gia kháng chiến và bị bắt vào cuối năm 1946, bị
đày ra Côn Đảo và ít lâu sau thì chết. Cha mất, mẹ lấy chồng khác. Bố
dượng là 1 tay máu me cờ bạc, lại nghiện thuốc phiện năng nên gia sản
dần dần biến hết. Cáu bẳn vì sinh kế, ông dượng thường nọc đứa con riêng
của vợ ra hành hạ để hả cơn bực tức. Không chịu nổi, Đại bỏ học hẳn,
sang vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo tự nuôi thân. Khu vực làm ăn
của Đại là xung quanh ngã tư Công Lý (nay là * Khởi Nghĩa) – Nguyễn Công
Trứ. Tại đó có 1 rạp chiếu bóng tên là Cathay. Không ngày nào trước cửa
rạp hát không xảy ra những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi
đời. Lì lợm và liều lĩnh, Đại cứ lăn xả vào đối thủ liên tục tấn công,
dù kẻ đó có cao hơn nửa cái đầu cũng mặc. Trăm lần như một, Đại luôn là
kẻ chiến thắng, dù tay chân mặt mũi đầy vết rách bầm. Nghiễm nhiên, hắn
trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng
nghiễm nhiên, gã được quyền ráp thêm “tên đất” vào sau tên cúng cơm để
trở thành Đại Cathay, “đại ca” đường Nguyễn Công Trứ. Đó là năm 1954 lúc
Đại mới 14 tuồi.
Trở thành “anh chị”, Đại được quyền sống mà không mó tay vào bất cứ
việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em “đi
làm” mang tiền về nộp. Mỗi buổi sáng, hàng chục thiếu niên Ba Binh, Ba
Tướng, Ba Gà (hỗn danh để gọi đám trẻ du đãng chưa có tên tuổi. Ba Binh
là quân sư, Ba Tướng là những thằng trực tiếp đi đánh nhau còn Ba Gà là
những tên thuyết khách) cả trai lẫn gái tụ tập quanh Đại Cathay nhận
công việc và địa bàn do hắn cắt cử, sau đó túa đi, chiều lại đem tiền về
cho Đại. Được cái, hắn rất hào phóng, Đại Cathay chia hết tiền cho đàn
em, chỉ giữ lại cho mình 1 khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế
tiếp. Những đàn em không may bị ế báo, bị mưa ướt thuốc, kẹo phải đền
tiền, Đại Cathay cũng không chửi bới, đánh đập như những tên “chăn chíp”
tham lam khác mà còn lấy của đứa “trúng mánh” cho thêm. Vì vậy, đàn em
rất khoái và chịu nghe lời “anh Đại”. Tình trạng đánh lộn, tranh giành
khách trong khu vực của Đại Cathay được dẹp yên.
Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót cảnh sát quận Nhì, thường
được gọi là bót Dân Sinh, nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều lần, sau khi dẫn
đàn em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các
băng nhóm đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị các công cò bót quận Nhì
xách tai lôi về bót. Hăm dọa, tát tai, đá đít đủ kiểu, thằng nhóc vẵn
trơ trơ không chịu khai tên tuổi những đàn em tham gia ẩu đả, đám mã tà
phú lít lại đành thả Đại về. Hết thuốc, các ông cò nảy ra đòn độc để trị
Đại Cathay, bắt đàn em của đại đứng xem. Chúng bắt thằng nhóc quỳ giữa
sàn nhà, hai ông cò hai bên xốc ngược tay Đại lên, cạy mồm, thả vào một
con gián sống. Con vật lập tức chui tọt vào cổ họng lao thẳng xuống dạ
dày. Ngứa ngáy, kinh tởm và nhột không chịu được, Đại Cathay ói ra mật
xanh, mật vàng. Đám Ba Binh, Ba Tướng xung quanh lè mắt, có đứa hét lên
ngất xỉu và * ra quần. Đại Cathay, sau một hồi nôn thốc nôn tháo, bắt
đầu trấn tĩnh, lại tiếp tục câm như hến, tuyệt đối không khai. Không còn
cách nào khác, các thầy cảnh sát đành tống Đại Cathay vào trại tế bần
hoặc Trại giáo hóa thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức.
Ở miền Nam trước giải phóng, có bốn nơi được coi là “lò đào tạo du
đãng”. Nơi thứ nhất là Trại nuôi dạy trẻ mồ côi, cơ nhỡ nằm tại địa điểm
nhà hát Hòa Bình hiện nay. Nơi thứ hai, Làng cô nhi Thủ Đức, điều kiện
sống khá hơn nhưng vẫn rất lỏng lẻo, tha hồ cho đám tiểu yêu phá phách.
Những tên nhóc bất trị nhất, hai trại trên đều không chứa nổi thường bị
cảnh sát lùa vào Trại giáo hóa Thủ Đức. Thực chất, đây chỉ là nơi nuôi
báo cô đám du thủ du thực, chờ chúng đủ tuổi là đẩy vào quân đội. Nơi
thứ tư, Trại Tế Bần nằm bên kia cầu Trình Minh Thế (nay là cầu Tân
Thuận), là một Trạm trung chuyển giam giữ những tên lưu manh sắp hết
tuổi vị thành niên. Sau nửa tháng bị giam, nếu có người nhà bảo lãnh,
đóng phạt, tên tiểu yêu sẽ được cho ra. Nếu không chúng sẽ bị nhốt lại,
chờ đủ tuổi là tống vào đội quân “cưỡng bức phục vụ” tức lao công phục
vụ chiến trường. Kẻ nào bị liệt vào hạng này coi như cầm chắc cái chết.
Ngoài mặt trận, việc của họ là đi trước phát cây, mở đường, đào công sự,
trong khi chân không giày dép, hai người chung một sợi dây xích chân,
muốn chạy cũng không được, mặc kệ mưa đạn vãi cả trước mặt lẫn sau lưng.
Biết trước số phận “bia thịt” của mình nên đám du đãng vào trại tế bần
chưa ấm chỗ đã tìm cách trốn. Lọt ra khỏi vòng rào các trại, đám nhóc
lại lần về với các băng nhóm du đãng, bụi đời.
Hầu hết đám giang hồ Sài Gòn nổi tiếng sau này đều đã từng qua đủ các
trại nói trên. Thuộc hang vào ra như cơm bữa, Đại Cathay được liệt vào
loại “tù con rạ”, để phân biệt với đám “tù con so” mới nhập trại lần
đầu. Ở các trại, Đại Cathay đã làm quen với những Của Gia Định, Lâm chín
ngón, Hắc quảy quảy, Hòa áo thun… những chiến hữu đắc lực sau này trên
chốn giang hồ.
Mỗi lần vào trại rồi trốn ra, Đại Cathay càng liều lĩnh hơn, kinh
nghiệm hơn, càng “tích cực” lao đầu vào những trận thư hùng – vốn là thứ
năng khiếu nổi trội hơn cả ở hắn.
Năm 1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở khu vực Hãng phân Khánh
Hội cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám trẻ con khu vực này đón tiếp Đại
Cathay khá nồng nhiệt bằng những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự lì đòn
của Đại lại giành phần thắng. Toàn bộ nhóc tì khu vực Khánh Hội, quanh
cầu Ông Lãnh, gồm toàn dân bến tàu vựa cá, vựa rau cải – vốn có hạng
trong nghề dao búa – đều bị Đại Cathay qui phục về dưới trướng.
Khi Đại Cathay còn là một cậu bé đánh giày thì toàn bộ khu vực Cầu
Mống – Dân Sinh – Cầu Ông Lãnh mà dân giang hồ gọi là khu Da Heo, đều do
một tay giang hồ nổi tiếng là Tám Lâu cai quản. Ở trần, quần dài vắt
vai, đi đứng nói năng khụng khiệng, nét mặt luôn đằng đằng sát khí, Tám
Lâu bị bà con khu Da Heo coi như một hung thần. Nghề chính là đạp xích
lô, nhưng thực chất Tám Lâu là kẻ nhận quyền bảo kê thu thuế toàn bộ khu
Da Heo, dưới trướng có hàng chục đàn em. Dưới nệm xích lô, Tám Lâu luôn
thủ sẵn “hàng mã”, sẵn sàng vung ra bất cứ lúc nào với bất cứ ai.
Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày dẫn quân đập lộn, Tám Lâu
đâm “chịu” Đại. Thỉnh thoảng ngồi nhậu thấy Đại đi qua, Tám Lâu lại
ngoắc vào kê ghế cho ngồi cạnh mần hơi cho ấm bụng. Qua những lần nhậu
ké đó, Đại Cathay được Tám Lâu giới thiệu như một tay trẻ tuổi tài cao
đầy hứa hẹn với đám giang hồ đàn anh: Ba Hội, Cảnh Tượng… Tám Lâu cũng
thường đưa Đại đến các khu Lò Heo (cũ), Chánh Hưng, hẻm Hai mươi để làm
quen với các tay anh chị khu vực khác. Nể tình Đại Cathay cũng hay ghé
đến hẻm 110 Nguyễn Công Trứ để thăm hỏi Tám Lâu.
Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ trước uy thế của
anh em Bé Bún, một trùm giang hồ quận 4, khu vực cạnh Hãng phân nơi Đại
Cathay trú ngụ. Cậy đông quân lắm mã, đám này thường kéo rốc qua Cầu
Ông Lãnh, tràn vào “thu thuế” giật bà con thiểu thương chợ vựa Cầu Muối,
Tám Lâu không cản nổi.
Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh thở ngắn than dài, nộ khí xung thiên, Đại Cathay đề xuất:
- Anh Tám để đó em lo. Phải cho Bé Bún nằm viện, đám này mới ngán!
Tám lâu gạt phắt:
- Con nít biết gì? Tao còn thua nó, mày là cái đinh gỉ!
Tự ái Đại Cathay bỏ về. Lúc này đám Ba Binh, Ba Tướng của Đại cũng đã
lớn, toàn thanh niên 17, 18 tuổi, lại lăn lộn lề đường nhiều nên cũng
khá dày dạn. Nghe lời Đại Cathay, đám này vác dao qua Bến Vân Đồn “chém
bậy” vài tay em của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết, Bé Bún hô toàn bộ
em út tấn công sang khu Da Heo hỏi tội Tám Lâu. Quân Bé Bún quá đông,
khiến Tám Lâu và đám đàn em hoảng hốt, định bỏ chạy. Nhưng vừa qua khỏi
Cầu Ông Lãnh, băng Bé Bún đã ôm đầu máu chạy ngược trở lại, kêu la vang
trời. Không nói trước với đàn anh nửa câu, Đại Cathay đã âm thầm cho đàn
em của mình “trải đệm”, bất ngờ “luộc” băng Bé Bún. Dưới sự chỉ huy của
Đại Cathay, đám giang hồ tân binh tả xung hữu đột lăn xả vào chém quân
Bé Bún, xộc thẳng sang cả bên kia cầu. Nói là làm, Đại Cathay đã xỉ cho
Bé Bún mấy nhát sau đó phải nằm viện thật, không dám bén mảng sang giành
mối ở khu Da Heo nữa.
Sau trận hỗn chiến, Tám Lâu đâm ớn “tài ba” của Đại Cathay. Một mặt,
Tám Lâu tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn quyền xử sự, mặt
khác y lại lo ngay ngáy bị Đại Cathay lấy làm đối thủ. Biết ý, Đại tuyên
bố không giành đất, khu Da Heo vẫn của Tám Lâu. Phần Đại, gã chỉ thu
thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút trong khu vực. Tiếp đó, Đại vươn tay
bảo kê tất cả các ngành nghề kinh doanh lậu bao gồm xưởng nấu xà phòng,
lò mổ heo, lò rượu…trong khu. Có tiền có quyền, Đại dần dần đã khiến các
tay anh chị khác phải dạt ra. Đại Cathay tha hồ ăn chơi và làm mưa làm
gió.
Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào hippie bắt đầu
thâm nhập vào miền Nam. Các cậu ấm cô chiêu con nhà giàu tuy được ăn học
đàng hoàng nhưng cũng học đòi nhau, thường xuyên có mặt ở các nhà hàng,
vũ trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo tóc tai dị hợm. Đại Cathay tuy
ít học nhưng cũng không hề kém cạnh các bậc trí… giả trong khoản ăn
chơi. Nhẵn mặt ở các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại
Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với một đám sinh viên, kỹ sư, bác
sĩ con nhà gia thế, trong đó có anh em Dzách Bửu, Dzí Bửu, Hùng Đầu bò,
Hoàng Sayonara (tay này móc classic bản Sayonara rất “não nùng”)… và
nhiều văn sĩ nghệ sĩ khác. Đám nghệ sĩ trí thức cũng nể Đại Cathay chịu
chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã- trông bụi đời, hippi hơn
cả. Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến
lược làm ăn và chinh phạt cho Đại. Nghe lời các quân sư, Đại Cathay đứng
ra cùng với Bảy Si, bà Bảy Trà đá mở sòng bài lấy xâu ở khu vực Cầu
Muối.
Ban Đầu Đại Cathay không thích mở sòng bài vì dân giàu có đã có các
sòng Đại Thế Giới, Kim Chung… Mở nữa e không cạnh tranh nổi, Hoàng
Sayonara vẽ:
- Không chỉ giàu mới máu me đen đỏ. Các sòng lớn như Kim Chung, Đại Thế
Giới toàn dân quí tộc, chức sắc, dân giang hồ, người buôn bán ngại vô.
Ta mở sòng vừa vừa kéo khách từ đám này.
Đại Cathay đồng ý. Ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Si (anh vợ Năm Cam –
ông trùm sòng bạc sau này) đã có sòng bài sẵn, nhưng khi nghe Đại Cathay
đề nghị hùn hạp, Bảy Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại mở rộng
ra cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với Hỏi, trùm, khu Cây Da Xà.
Hắn mua của Hùng đầu bò một chiếc Traction – 15, chiều chiều cho đàn em
lái đi khắp các ngả đường vứt lên từng xấp “phơi” đề cùng với hàng cọc
tiền chở về. Quyền lực được tiền bạc hậu thuẫn khiến Đại Cathay càng
thêm uy thế. Đến năm 1962, 1963, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm
khét tiếng. Gần như hầu hết nhà hàng khách sạn, động mại dâm, tiệm hút
chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các
vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều coi
hắn như ông chủ đích thực, Đại Cathay và đàn em tha hồ ăn chơi nhảy múa
mà không một nơi nào dám viết hóa đơn, thậm chí còn lấy làm vinh hạnh vì
được đàn anh chiếu cố.
Nhưng nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại không phải từ
tiền thuế bảo kê. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là kẻ tình nguyện
đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm hậu thuẫn
khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác. Cả
anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (Vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc
Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề
khác của người Hoa là những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy
thế của các “vu”, Đại Cathay cũng làm quen, “chơi chịu” được với khá
đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác.
Chỉ năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại Cathay đã trở thành
một ông trùm không đối thủ, được toàn giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi.
Nhưng vẫn còn ba ông trùm “lừng lẫy” khác không ưa gì Đại Cathay, đó là
Huỳnh Tỳ, ông trùm Lê Lại, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Cho rằng Đại “chơi kèo
trên”, giành mối, giành đất, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định “hội
đồng” diệt Đại. Hai tên giang hồ họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này
là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New World) cùng một giang hồ gộc là
Thế Aristo – chủ vũ trường – có thêm Hùng phốc và Luân – 2 giang hồ cộm
cán khác cùng hỗ trợ, mời Đại đến “bàn công việc”. Không chút nghi ngờ,
Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế Aristo đá lộn cổ trở xuống.
Bốn kẻ phục
kích cũng nhất tề rút dao xông vào chém. Đại Cathay vừa đỡ đòn vừa tìm
đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình mẩy đầy thương tích nhưng may
không chết. Những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại đã đơn thương độc
mã giắt dao đi tìm từng tên một trị tội. Cả năm tên đều lần lượt bị Đại
Cathay chém trọng thương. Cuối cùng Tám Lâu phải nhờ Cảnh Tượng, Ba Hội
và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp cho năm tên, Đại Cathay mới
nguôi giận, đồng ý “hòa giải”. Danh xưng “Tứ Đại giang hồ” ĐẠI – TỲ –
CÁI – THẾ bắt nguồn từ đó.
Lẽ ra, với những thành tích bất hảo chồng chất lên nhau, Đại Cathay
đã ngồi tù mọt gông từ những năm trước đó. Nhưng xã hội miền Nam đầy
nhiễu nhương với bộ máy quan chức được mua bán bằng tiền đã tỏ ra bất
lực không trị nổi Đại Cathay và đám du đãng, để mặc kệ cho chúng làm mưa
làm gió. Vào thời đó, chức quận trưởng quận 1 trị giá 30 triệu đồng,
trong khi lương lính chỉ hơn 300 đồng cho nên những kẻ đương chức chỉ
tìm cách vơ vét, làm giàu để bù lại số tiền đã bỏ ra mua lon tước. Cò
Ly, quận trưởng quận 1 còn cố tình dung túng cho Đại Cathay mở sòng bài,
hoạt động bảo kê thu thuế. Bù lại, hằng tháng, Đại đều có những khoản
riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ ông Cò. Mỗi chiều thứ bảy, cò Ly và
Đại Cathay lại sánh vai nhau bước vào các vũ trường nhà hang sang trọng
ăn chơi, đập phá thâu đêm. Đương nhiên, lương quận trượng một năm cũng
không đủ chi cho một lần nhất dạ đế vương nên ông cò chẳng bao giờ phải
nghĩ đến chuyện móc hầu bao.
Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết định bành trướng xuống
Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo người Hoa, xưa
nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm.
So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã Nàm có tổ
chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Dưới thời Diệm – Nhu, toàn bộ hoạt
động kinh tài của các bang hội Hoa Kiều Chợ Lớn đều có cổ phần của giới
Hắc Đạo. Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc, tiệm hút… đều do giới này quản lý
hoặc hùn hạp. Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11/1963, do tham lam, chính
Tín Mã Nàm đã khiến giới Hắc Đạo suy yếu. Bắt tay với khá nhiều tướng
lĩnh, chính khách thuộc phe đảo chính, “Con ngựa điên” đã bán đứng một
số cơ sở kinh tài của các bang hội cho chính quyền mới, tố họ là “cơ sở
kinh tài của Diệm – Nhu”. Mặt khác, Tín Mã Nàm cũng tố cáo và giao nộp
cho cảnh sát một loạt tay giang hồ Hoa kiều không ăn cánh với y như Hỏi
Phòong Kin, Sú Hồng, Cọp Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy Chảy… nhằm củng
cố địa vị “Vua Hắc Đạo” của mình. Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê
Ngọc Trụ – Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng dụng và ưu đãi, trong khi bị
nhiều đàn em oán giận và tìm cách trả đũa.
Trong những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán tên Chó, người giúp việc
cho Tín Mã Nàm quản lý ngành kinh doanh cờ bạc. Biết được sự chia rẽ
đó, Đại Cathay đã sai đàn em dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng Tín Mã
Nàm, kéo một lượng lớn các con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế Giới, Hào
Huê về Cầu Muối cho sòng của Đực Bà Tiều và Bảy Si thuộc quyền Đại
Cathay, đồng thời bỏ luôn khu Chợ Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng
bạc ở khu Sài Gòn. Biết chuyện, Tín Mã Nàm hạ lệnh cho giới Hắc Đạo:
- Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay bén mảng xuống Chợ Lớn.
Chỉ chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay đã liên tục đổ quân
tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín Mã Nàm ở vùng Chợ Lớn, chém phứa
vào bất cứ ai rồi tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân lành,
khách chơi, chính vì vậy họ đâm sợ các điểm ăn chơi giải trí của Hắc
Đạo, không dám lui tới nữa. Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê
của Tín Mã Nàm đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp kỷ luật của
ông trùm. Nhưng cứ tên Hắc Đạo nào lọt xuống khu Sài Gòn là tên đó bị
đàn em của Đại Cathay chặn đánh. Đầu năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết
phong độ, Đại Cathay quyết định đánh trận cuối, Đại dẫn theo 9 tên đàn
em “chiến đấu” nhất, trong đó có Ba Thế và Lâm chín ngón đi trên 5 xe
Goebel bất thình lình tấn công vào quán cà phê ngay trước rạp Hào Huê,
đối diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của các tay đàn em Tín Mã
Nàm vào 2 buổi sáng chiều.
Cuộc tập kích thất bại, hai bên đều thiệt hại nặng nề. Nhưng máu liều
của Đại Cathay càng được giới giang hồ truyền tụng và vị nể. Tín Mã Nàm
cũng lo lắng: nếu cứ để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy, giới Hắc
Đạo chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn ai dám bén
mảng. “Con ngựa điên” phải kìm cơn điên, cử người đến mời Đại Cathay lên
nhà hàng Đồng Khánh điều đình. Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang cọp, e
bị “trải điệm” nhưng Đại Cathay nổi máu yêng hùng, vẫn quyết định nhận
lời. Để tài xế ngoài cửa, Đại một mình tay không lên nhà hàng hội kiến
với Tín Mã Nàm. Cử chỉ ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục. Hắn
nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại
Cathay toàn quyền . Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được phép hoạt
động với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc
Đạo. Riêng các khu vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm “dzách bạc hồ hãn”
(hẻm 100), Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được xâm phạm, vì đó là
giang sơn riêng của Tín Mã Nàm, nơi vợ bé của y sinh sống.
Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một phen khiến người
đi đường khiếp vía. Như một gã con trời thứ thiệt, Đại Cathay chễm chệ
trên băng trước chiếc Mustang mui trần do Năm Công lái, có cả chục tên
đàn em phóng xe máy theo sau hộ tống. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ
khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám
lưu manh tha hồ vỗ tay cười hô hố. Có lúc cao hứng, Đại Cathay còn
thượng cả hai chân ra trước kính xe hoặc thò ra bên cửa hông gỏ thùng xe
loạn xạ…
Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay khiến những kẻ tai
to mặt lớn và cảnh sát ngụy hết sức tức tối, nhiều lần tống cổ Đại vào
khám. Nhưng bắt cóc bỏ *a, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam
giữ hắn lâu, đành phải thả. Dùng luật không xong nhiều quan chức ngụy
tìm cách mua chuộc hắn.
Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, viên tướng cao bồi Nguyễn Cao Kỳ
– có lẽ do muốn chơi trội – bèn cho gọi tên du đãng đến. Kỳ phủ dụ:
- Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không thể
trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn
có quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ
suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được.
Tên du đãng ít học đời nào chịu suy nghĩ những ba ngày. Kỳ chưa dứt Đại Cathay đã trả lời luôn:
- Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi
đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho
người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?
Tướng râu kẽm bầm mặt nhưng vẫn ngọt nhạt:
- Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia, danh giá
đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi
đâu thiếu người giỏi.
Đại Cathay vẫn ngổ ngáo:
- Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được…
Sau Nguyễn Cao Kỳ đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc
Nha cảnh sát Đô Thành. Tuyên bố “Đặt giang hồ ra ngoài vòng pháp luật”,
tướng Sáu Lèo cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở bên kia cầu Bình
Triệu (quận 9) và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm tiêu diệt giang hồ do
đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng. Theo lệnh Sáu Lèo, “Biệt đội hình
cảnh” được bắn bỏ bất cứ tên giang hồ nào trên đường phố nếu chúng gây
án và chống lại cảnh sát. Sau một thời gian hoạt động, “Biệt đội hình
cảnh” vẫn chỉ tóm được một số tên du đãng “tép riu”, tướng Sáu Lèo bèn
quay sang tìm cách mua chuộc Đại Cathay hòng “dĩ độc trị độc”. Đính thân
Mã Sâm Nhơn, phụ tá của tướng Sáu Lèo đến gặp, đưa giấy mời của ngài
chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan cho Đại Cathay. Cùng một đàn em, Đại Cathay
có mặt y hẹn. Nguyễn Ngọc Loan ra giá:
- Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát quận 7. Anh được
toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du
đãng.
Đại Cathay từ chối:
- Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được?
Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh
liệt.
Nguyễn Ngọc Loan hạ giá:
- Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành.
Đại Cathay đồng ý với điều kiện để cho y và đàn em toàn quyền làm ăn
và cai quản khu cảng Sài Gòn, Khánh Hội, khu vực chợ vựa Cầu Muối, và
hai bên bờ Kinh Tẻ. Thấy tên giang hồ cứng đầu, Nguyễn Ngọc Loan nổi
đóa:
- Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu không giang hồ, du đãng sẽ không còn đất sống!
Đại Cathay trả lời:
- Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác được.
Cuộc mặc cả kết thúc. Tiếng tăm Đại Cathay nổi như cồn trong giới
giang hồ vì “dám vuốt râu kẽm” tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước
của Nguyễn Ngọc Loan ban cho. Đại Cathay càng vênh váo hơn. Nhưng chính
bằng sự nổi tiếng ấy, Đại Cathay đã tự ký cho mình bản án tử hình.
Quá ngạo mạn, đang đang là giai đoạn cực thịnh của băng Cathay, Đại
vẫn tiếp tục lộng hành. Không chi ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong công
việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng này
trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái lon
chuẩn tướng và trọng trách “Chief” ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan
đang nắm giữ.
Vào thời điểm đó, Sài Gòn ngập tràn trong không khí sống gấp và hưởng
thụ, không cần biết đến tương lai. Một trong những mốt thời thường của
các nhà buôn giàu có, các sĩ quan cộng hoà hào hoa, các công tử con nhà
gia thế là công khai có nhân tình nhân ngãi hoặc cặp bồ với cave, nghệ
sĩ trẻ đẹp. Đường đường là một vị tướng, Nguyễn Ngọc Loan đâu thèm để
mắt tới các cô cave, ca sĩ phòng trà bình thường. Người ta thường thấy
“ông tướng độc nhỡn” thường xuyên có mặt tại vũ trường Olympic trên
đường Lê Lợi vào mỗi tối thứ 7. Tại đó, Nguyễn Ngọc Loan là chủ nhân của
một vưu vật: ca sĩ Phương Dung nổi tiếng xinh đẹp và quý phái, người
được mệnh danh là “con nhạn trắng Gò Công”, lấy vũ trường này làm đất
biểu diễn. Mỗi lần đến thăm tình nhân, viên tướng xách theo cả chục tên
vệ sĩ thuộc hàng thiện xạ, cũng nổi tiếng ngổ ngáo và chịu chơi, phóng
xe Jeep bạt mạng với những đường cua cong lề bạt phố, đạp phanh cháy cả
mặt đường.
Olympic cũng là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới. Hơn thế
nữa, Thủy Tàu – tài pán vũ trường Olympic còn là một “mối” rất khoái
Đại Cathay. Khác với viên tướng và đám lâu la bụi bặm, Đại Cathay thường
lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hoà không khí, choáng lộn và
êm ru nhẹ nhàng bơi đến cửa vũ trường. Loại xe đó, cả Sài Gòn chỉ có dăm
ba chiếc.
So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại và băng Cathay luôn sẵn
sàng “xài lớn”, rút tiền chẳng bao giờ đếm, người ngợm củng “kẻng” hơn,
dĩ nhiên là được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều. Bị “gác
kèo”, đám vệ sĩ tức lắm, nhiều lần hậm hực, nhưng Đại Cathay và đám đàn
em vẵn phớt ănglê, coi như “chuyện tép”.
Một tối, Đại và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín ngón và Lành
Cầu Muối – một tay cảnh sát ăn “rơ” với giang hồ kéo đến Olympic từ khá
sớm. Thấy các đàn anh, đám cave ríu rít túa ra vây lấy bá cổ níu tay,
chí choé cả gian bar trên lầu 2. Cả đám “vui vẻ” mới chừng nửa tiếng,
cánh cửa lại xịch mở. Đám vệ sĩ của Sáu Lèo – không có chủ tướng đi cùng
– xộc vào, cũng cỡ chục tên. Ngồi chờ cả 15 phút, đám vệ sĩ vẫn không
thấy cô cave nào đến săn sóc. Trong khi đó, ở mấy bàn bên vẵn liên tục
vọng sang tiếng cấu véo giỡn hớt rúc rich của băng Cathay với đám cave
như thể trêu ngươi. Nổi cáu, cả đám vệ sĩ đưa mắt nhìn nhau và đứng bật
dậy. Thiếu úy Hải, một tay nổi tiếng thiện xạ tiến sang, đứng đối diện
với Hải Súng của băng Cathay, hất hàm:
- Vui vẻ quá hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?”
Vẫn không buông vai cô “đào nhí”, Hải Súng hất mặt:
- Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm phải uống nước *c, trách gì?
Viên thiếu úy gườm gườm, đưa tay vào bụng đặt lên báng súng:
- Đừng chơi quê tụi này chớ!
- Thì đã sao? – Hải Súng hếch mặt lên. Lúc này băng Cathay và đám
cave cũng đã ngưng đùa giỡn, ngẩng lên thủ thế. Được khích lệ, Hải Súng
tiếp: – Thịt người tanh không ăn được, đừng doạ nhau, tụi này không
thích!
Bị khiêu khích, mắt thiếu úy Hải vằn lên. Hắn xấn xổ chụp lấy tay cô đào nhí kéo về phía mình, tuyên bố:
- Không thích cũng bắt!
Sợ hãi, cô cave thét lên. Không nói không rằng, Hải Súng vớ ngay chai
Black and White trên bàn giáng thẳng xuống đầu đối thủ. Phản xạ nhanh,
thiếu úy Hải vội buông cô cave nhảy vọt sang một bên và móc súng. Hai
băng xông vào nhau. Bàn ghế ly tách bay tứ tán. Đột nhiên, Đại Cathay
hét lên:
- Tụi nó chơi súng, rút, tụi bây.
Pằng! Pằng! Pằng! Ầm
Đại chưa dứt câu, dàn đèn phe lê đã rơi ụp xuống sàn, vỡ tung toé,
đồng thời một viên đạn cũng nhằm đầu gối Đại găm tới, xô y gục xuống.
Hải Súng vội xô tới xốc Đại lên bỏ chạy. Trong băng chỉ có Hải và Lâm
Chín ngón giắt súng theo. Cả hai cũng vội móc ra bắn loạn xạ. Lâm Chín
ngón gào lên:
- Anh em rút đi, để tôi lo!
Lúc này, đám cave, bồi bàn đã hoảng hồn bỏ chạy hết. Thủy Tàu khá
nhanh trí, vội chạy bổ vào trong sập cầu dao điện. Bóng tối chụp lấy vũ
trường đã hỗ trợ cho băng Cathay bỏ chạy. Bị thương, Đại Cathay khó khăn
lắm mới được Hải Súng và Ngân Pôcon dịu được xuống lầu và kéo thẳng ra
đường. Lúc này, Lành Cầu Muối cũng vừa vặn trờ chiếc Mustang tới, hốt cả
bọn lên xe chạy thẳng. Lâm Chín ngón chạy sau cùng. Sau khi nhả hết
đạn, y cũng vội đu cửa số phóng xuống được Tạ Thu Thâu cắm đầu chạy luôn
một mạch. Sau lưng, đám vệ sĩ Sáu Lèo vẫn nã đạn theo chíu chíu.
Không thu phục được Đại Cathay, tướng Sáu Lèo đã ra lệnh cho “Biệt
đội hình cảnh” bắt bỏ tù hàng loạt đàn em nhằm cô lập hắn. Núng thế, Đại
Cathay đành tìm cách hoãn binh. Một buổi tối, hắn mua nguyên nhà hàng
Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Khi rượu đã chếnh choáng,
Đại Cathay mới ngỏ ý:
- Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh…
Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, từ chối thẳng thừng:
- Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu.
Nếu là trước đó mười hôm, máu côn đồ của Đại Cathay sẽ nổi lên ngay. Nhưng đang yếu thế nên Đại vẫn nhũn nhặn:
- Ồ không không. Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi. Còn hôm nay mời
đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ
nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì.
Viên đại úy không vui vẻ được lâu, cũng chẳng còn thời gian để bận
tâm lâu hơn nơi cõi thế. Sau buổi tiệc chỉ nửa tháng, một chiếc xe “be”
chở gỗ không rõ xuất xứ đã “bò” ngang qua chiếc xe hơi CV2 của Trần Kim
Chi khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ. Đại úy Chi và viên
lái xe chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất tăm, “không nhận
dạng được biển số”. Giới giang hồ đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát
hại Trần Kim Chi.
Cái chết của Trần Kim Chi đã đánh dấu chấm than cuối cùng cho cuộc
đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8/1966, với tội danh “Du đãng đặc
biệt”, Đại Cathay lại bị tóm cổ. Cùng với một loạt du đãng khác, ngày
28/11/1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ
tại đảo Phú Quốc.
Gọi là “Trung tâm hướng nghiệp” nhưng chính xác, đây là nơi lưu đày
những tên lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo nhưng không có
chứng cớ để bắt quả tang, do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập
nhằm “bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”.
Trại là những dãy nhà dã chiến thấp lè tè nằm trong rào kẽm gai bịt bùng
đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương Đông. Gọi là “hướng
nghiệp” cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt, đánh mạt
chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm, đang
đánh mạt chược, Đại Cathay bảo:
- Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt lại tên cho nó đi.
Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học đề xuất:
- Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó.
Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng”.
Không giống như dự định của tướng Sáu Lèo và sảnh sát ngụy, Trại “Cửu
Sừng” chẳng những không “hướng” được chút “nghiệp” nào cho đám đầu trâu
mặt ngựa mà ngược lại hoàn toàn. Toàn bộ đám du đãng bị bắt vào đây như
Đại Cathay, Hải Súng, Hoà áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng
Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu Hao… sau này đều là những tên giang hồ cộm cán
nhất của Sài Gòn – Chợ Lớn, càng ngày càng hung hãn hơn. “Trại Cửu
Sừng” như một con dấu chất lượng để đánh giá giang hồ. Tên nào từng ngồi
ở “Trại Cửu Sừng” sau này đểu trở thành đàn anh, được quyền ăn trên
ngồi trốc trên chốn giang hồ.
Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay là
cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng
Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đối diện với vũ trường Olympic.
Khi Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài Gòn,
biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng
anh trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay.
Đầu tháng 1/1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm nuôi đám
du đãng bị nhốt ở Trại Cửu Sừng. Gặp Đại Cathay cô báo cho chồng biết đã
lo xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Đám lính gác sẽ làm ngơ
cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn
sẽ đưa đám tù ra khơi, có tàu hải quân do Nhân bố trí sẵn rước về đất
liền. Để mua chuộc đám lính gác, Nhân đưa cho Đại một chiếc áo bluson và
dặn dò kỹ lưỡng. Nhìn bề ngoài, nó chỉ là một chiếc áo lạnh rẻ tiền,
sau lưng có một con rồng ấp quanh bản đồ Việt Nam thêu hai màu, nửa miền
Bắc màu đỏ, nửa miền Nam màu vàng. Loại áo này bán nhan nhản dọc các
tiệm đường Lê Thánh Tông, trong chợ Dân Sinh… chủ yếu để đám lính Mỹ sắp
hồi hương mua về làm kỉ niệm.
Khi chuyển áo cho Đại Cathay, tên lính canh của trại hướng nghiệp Phú
Quốc thấy nó nặng hàng ký nên đâm nghi ngờ. Lần theo lưng áo hắn sờ thấy
giữa hai lần vải có hàng chục miếng kim loại mỏng được khâu đầy trong
đó. Đoán là vàng, tên lính canh định lôi ra khám xét. Lập tức cái liếc
xéo mắt của tên sĩ quan đứng cạnh đã ngăn hắn lại. Tên lính đành trả lại
áo cho Đại Cathay mang về phòng.
Theo lời đồn đại của giới giang hồ thì khi về phòng, Đại Cathay đã xé
chiếc áo lấy ra đúng 62 lá vàng loại 1 lượng khâu trong đó. Với số vàng
này, Đại đã mua chuộc đám cai ngục để chúng bố trí cho lính gác làm ngơ
khi Đại bỏ trốn.
Đi theo Đại Cathay có khoảng một chục đàn em trong đó có Xì kíp, Lắm
Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và Lâm Chín ngón… Đến phút cuối, Đại
Cathay theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón – gã đệ
tử thân nhất – ở lại. Đại nói với cả đám:
- Thằng Lâm lóc choc, dễ làm bể chuyện lắm. Vả lại, chuyến đi này
lành ít dữ nhiều, nó còn trẻ, tội lắm. Chi bằng để nó lại, mình thoát
rồi lo cho nó về sau an toàn hơn.
Trước giờ khới sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín ngón đến và bảo:
- Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách.
Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô bình thường do chính
tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng nồng độ. Phê
thuốc, Lâm Chín ngón quay ra ngủ say như chết. 12 giờ đêm ngày 7/1/1967,
Đại Cathay dẫn đàn em đào thoát ra ngoài.
Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp.
Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ hai, có Đại
Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Bất ngờ, khi cả hai tốp vừa
vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Tốp thứ nhất, gồm Xì
kíp, Hùng Mỏ chuột,.. bị tóm cổ lại ngay. Đại Cathay và Hải Súng vội
đổi kế hoạch, chạy lên phía Bắc đảo, lần vào khu núi tượng, nơi có Quân
giải phóng hoạt động. Đến đây, không ai còn tận mắt gặp lại Đại Cathay
và Hải Súng. Và hàng loạt giai thoại giải thích sự mất tích của hai tên
du đãng đầu sỏ bắt đầu xuất hiện.
Theo hồ sơ về cái chết của hai tên du đãng mà chúng tôi có được: Biết
không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên đãng làm bẽ mặt, chuẩn
tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại
Cathay. Khi biết cô Nhân – vợ Đại – đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại
Cathay vượt ngục… Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực
hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của
trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích
đám tép riu, còn Đại và Hải, chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng.
Sau đó, Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ
huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại và Hải, bắn hạ
chúng. Khi đi, toán biệt kích dù phải thay quần áo bà ba, đội mũ tai
bèo, mang dép râu và sử dụng súng AK47, giả trang làm Quân giải phóng để
đổ vấy cho việc giết Đại Cathay và Hải Súng cho phía Cách Mạng. Diệt
xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ, đề bia tử tế để dễ bề nhận diện và
gây dư luận. Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang
khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng
chính tay y đã nổ súng hạ gục Đại Cathay. Khá nhiều người cũng biết rõ
ngọn nguồn sự việc, song trước khi ngụy quyền sụp đổ, không một tờ báo
nào dám viết về âm mưu hại địch thủ của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy,
lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền
thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay – tên du đãng ngoại hạng.
Lâm 9 ngón
Lê Ngọc Lâm sinh năm 1945 tại Hà Tây, theo gia đình di cư vào Sài Gòn
năm 1954. Ba năm sau, những biến cố thời cuộc làm gia đình tan nát, Lâm
phải vào Cô nhi viện Thủ Đức khi mới 12 tuổi. Được một thời gian, Lâm
trốn khỏi cô nhi viện, nhập vào đám bụi đời, bán báo trên hè phố Sài
Gòn. Cô nhi viện dạy cho Lâm biết chữ, còn lề phố dạy cho Lâm biết… đánh
lộn để giành mối, cạnh tranh. Những cuộc *ng độ xảy ra như cơm bữa đã
biến Lâm thành một người ngang tàng và rất lỳ đòn.
Năm 1963, Lâm thi hỏng tú tài và bị bắt vào quân dịch nhưng đã trốn
về Sài Gòn sống lang thang, sau đó gia nhập nhóm bụi đời ở khu Da Heo,
đường Nguyễn Công Trứ, quận 1 do Đại Cathay cầm đầu. Vốn liều lĩnh và to
khoẻ, anh ta nhanh chóng trở thành một trợ thủ đắc lực của Đại Cathay
trong các trận chiến phân chia lãnh địa. Năm 1964, một cuộc tranh hùng
như vậy đã chém mất một ngón tay của Lâm. Biệt hiệu Lâm “chín ngón” ra
đời từ đó, do chính Đại Cathay đặt. Tháng 11/1966, băng Đại Cathay bị
cảnh sát ngụy bắt đày ra đảo Phú Quốc. Tại đó, Đại Cathay tổ chức vượt
ngục và mất tích. Lâm “chín ngón” bị bỏ lại, ngồi tù thêm nửa năm thì
được thả.
Trở về Sài Gòn, Lâm chuyển sang nghề “ăn bay” (cướp bằng xe máy) và
nhanh chóng trở thành một “quái bay”. Sử dụng xe Honda 67, loại xe tốt
nhất thời bấy giờ, Lâm “chín ngón” đã gây ra hàng chục vụ cướp giật với
những người vừa lĩnh tiền ngân hàng đi ra. Trong một lần “ăn bay” cuối
năm 1970, Lâm bị cảnh sát ngụy bắt tại trận và bị tống vào trại giam Chí
Hoà. Tại đó, Lâm đã được hội ngộ với hầu hết những “tay chơi cộm cán”
nhất của Sài Gòn.
Thời hai tay ba đao
Vào thời gian đó, bộ máy cảnh sát, nhà tù của * ngụy Sài Gòn gần như bó
tay trước nạn lộng hành của đám lưu manh, du đãng được hỗ trợ bởi ma tuý
bán đầy rẫy và rẻ như bèo. Lúc cao điểm, trại Chí Hoà có khoảng 2.000
tên tù hình sự thì cũng gần như ngần đó con nghiện. Vì vậy, bán ma tuý,
thuốc phiện đem lại cho các “ông trùm” một nguồn lợi có thể lên tới
20-25 lượng vàng/ngày. Số vàng này khiến chúng vây bè, kết cánh hùng cứ
quyền bán ma tuý ở các dãy buồng giam, tranh giành lãnh địa, hoặc hạ bệ
nhau, nhằm ngoi lên làm ông trùm để độc quyền thu lợi. Là “đàn anh”, như
Lâm “chín ngón” ở dãy FG, tuy có thể tự do đi lại giữa các dãy nhưng
lần nào cũng phải có vài ba vệ sĩ tháp tùng, nếu không ăn đao là cái
chắc. Mỗi khi tham chiến, những tên du đãng này đều hai tay nắm chắc hai
con dao. Con thứ ba giắt ngang bụng, phòng khi dao trên tay bị đánh rơi
hay bị đối phương tước mất. Hỗn danh “thời hai tay ba đao” bắt nguồn từ
đó, để chỉ giai đoạn 1970-1974 trong trại giam Chí Hoà.
Là cánh tay phải của Đại Cathay, từng đâm trầy mặt và hạ bệ “tướng
cướp cô đơn” Điền Khắc Kim để giành địa vị ông trùm, Lâm “chín ngón” trở
thành một “cao thủ” được độc quyền bán thuốc phiện ở khu FG, đồng thời
trở thành đại lý cung cấp loại “hàng đen” này cho toàn bộ trại Chí Hoà.
Quyền khai thác “hàng trắng” ở dãy này thuộc về Chương “khùng”, một tên
giang hồ có số khác, kẻ từng dẫn đầu hàng chục tội phạm người Việt xông
vào khu AB cướp thùng đựng tiền của đám tù nhân người Hoa gốc Hong Kong,
Ma Cao, Đài Loan… và bị chém trọng thương. Đúng định kỳ, hàng đen từ
bên ngoài được gửi vào “thăm nuôi” Lâm “chín ngón”. Cai tù biết nhưng
làm ngơ để được chia 30% lợi nhuận.
Khoảng giữa năm 1972, đám con nghiện đâm đầu sang mua “hàng đen”
khiến thu nhập của Chương “khùng” tụt xuống nhanh chóng. Đàn em của
Chương bỏ đi phò Lâm “chín ngón”. Chương tức giận, chửi bới om sòm. Một
tên “ngang cơ” khác là Năm Lương đổ thêm dầu vào lửa: “Mày chỉ giỏi võ
mồm. Thừa biết thằng nào hạ bệ rồi, mày có giỏi thử *ng đến nó coi”.
Bị kích động, Chương khùng nổi cơn. Hắn lấy bộ đồ võ vận vào người
rồi nuốt 3 viên Renoval để thêm dũng khí, hằm hằm tuyên bố: “Tìm thằng
Lâm chín ngón nói chuyện cho phải quấy”. Nghe đàn em cấp báo, Lâm đang
chơi bóng chuyền ở sân trại liền dừng ngay để đợi. Gặp nhau, Lâm hỏi
trước: “Chương! Nghe nói mày đòi dẹp. Mày bảnh thì chơi lại tao coi”.
Đang uống nước, sẵn ly cầm trong tay, Lâm “chín ngón” ném ngay cái ly
uống dở vào mặt Chương khùng và nhào tới. Quá bất ngờ vì không nghĩ tới
chuyện đối thủ phản ứng quá mạnh, lại thấy đàn em của Lâm kéo tới khá
đông, Chương “khùng” vội né người tránh ly nước đập vào mặt rồi… bỏ
chạy, mặt mũi hầm hầm.
Ở khám Chí Hòa lúc đó có Cương “võ sĩ”, tức Vũ Đình Cương, vốn là võ
sĩ quyền anh có đẳng cấp, từng nhiều lần thượng đài khắp miền Trung –
Nam và Campuchia, nếu đấu tay đôi sòng phẳng, cỡ Lâm “chín ngón” hoàn
toàn không phải là đối thủ. Năm 1970, Cương bị bắt vì tội buôn bán ma
tuý. Lại là em ruột của Vũ Đình Sơn trùm ma tuý ở Sài Gòn thời bấy giờ
nên Cương được đám giang hồ phong làm “đại ca của các đại ca”, toàn
quyền sắp đặt, sai phái toàn bộ giang hồ trong trại Chí Hoà. Khi các
băng nhóm xích mích, chỉ cần Cương nói một vài lời là tất cả đều răm rắp
tuân theo.
Sự việc xảy ra lúc Cương “võ sĩ” đang tụ tập với mấy tay anh chị
trong dãy BC. Thấy Chương “khùng” vừa chạy qua vừa khóc, Cương bèn ngăn
lại hỏi. Chương tố láo: “Thằng Lâm ỷ đông, kéo đàn em đến đòi xử tôi,
cấm không cho tôi bán ma tuý nữa”. Nghe tới đó, máu “yêng hùng” nổi lên,
Cương bèn dẫn nửa tá dân anh chị sang khu FG để “hỏi tội thằng Lâm”.
Phần Lâm “chín ngón”, đang lúc đấm thình thình vào tường buồng giam
3F4, dọa “luộc thằng Chương”, thì được một tên đàn em cấp báo: “Anh Lâm
cẩn thận, anh Cương đang dẫn người qua tìm anh đó”. Vừa nói, tên này vừa
giúi vào tay Lâm mấy con dao lá lúa, dặn: “Anh cầm theo để phòng thân”.
Lâm bảo “một dao đủ rồi” và chạy ra nghênh tiếp. Khi hai bên đứng đối
diện nhau, Cương võ sĩ hỏi: “Lâm! Ở đây, mày với tao, ai là đàn anh?”.
Lâm chưa kịp mở miệng đã bị Cương tung ngay một cú thôi sơn vào mặt.
Nhanh mắt, Lâm né đầu tránh được. Cú đánh khá mạnh nhưng không trúng mục
tiêu khiến Cương võ sĩ hụt đà chúi thấp đầu về phía trước. Lợi dụng
phút này, Lâm “chín ngón” nắm ngay cổ áo địch thủ lật lên và quơ tay ra
sau lưng rút dao… Tất cả diễn ra quá nhanh nên không ai kịp can. Cương
chỉ kịp “hự” lên một tiếng rồi ôm ngực vật ra sàn. Nghe ai đó kêu lên:
“Anh Lâm, đừng đâm nữa”, tên hung đồ mới sực tỉnh. Nhát dao đâm trúng
tim, Cương võ sĩ chết ngay tại chỗ. Lâm “chín ngón” mặt tái mét, vội
thanh minh trước khi bị dẫn đi: “Tôi không cố ý, tại anh Cương… Thôi,
anh em thắp cho ảnh mấy nén nhang giùm tôi”.
Bị Lâm giết mất em ruột là Cương võ sĩ, Vũ Đình Sơn, tức Sơn đảo, tay
buôn ma tuý có hạng cộng với những “chiến tích” nửa thực, nửa bịa mang
về từ 5 năm ngồi tù tại Côn Đảo, *g lộn lên. Y tuyên bố: “Sẽ lấy mạng
thằng Lâm bằng bất cứ giá nào”.
Kẻ báo thù đầu tiên được Sơn chọn là Tuấn đả (quê Hộ Hải, Ninh Hải,
Ninh Thuận). Khi bị bắt giam tại quân lao Nha Trang, Tuấn từng đâm lòi
ruột Sơn trắng, sếp sòng quân lao này, để tiếm quyền. Máu liều Tuấn có
thừa, nhưng y khó chơi tay đôi mà thắng được Lâm chín ngón. Sơn chỉ có
nước tuồn “chó lửa” vào tù để Tuấn hạ Lâm. Nhưng do cảm kích vì từng
được Lâm đứng ra bảo lãnh, giúp thoát khỏi trận đòn hội đồng của toàn
thể đám đàn anh ở trại tạm giam Chí Hoà khi vừa mới chuyển đến, nên Tuấn
đã từ chối “hợp đồng” mà Sơn đảo nhờ, kèm lời giải thích: “Anh Đại (Đại
Cathay) gọi nó là Lâm điên, gọi tao là Tuấn khùng. Không lẽ thằng điên
đi bắn thằng khùng”.
Mất gần cả năm trời, Sơn mới tìm được người thay Tuấn . Gã này tên là
Nguyễn Văn Hoàng, tự Hoàng đầu lâu (theo hình xăm trên bả vai). Nói về
võ nghệ, cả trại Chí Hoà không ai sánh kịp Hoàng. Mang đai đen tứ đẳng
Taekwondo, Hoàng đã từng hạ hàng chục cao thủ cả Việt lẫn Miên trên sàn
đấu. Biết vợ con Hoàng đang sống khó khăn, Sơn bèn bỏ tiền mua một căn
nhà mặt phố nhỏ đem tặng, sau đó lại sang một sạp vải ở chợ cho vợ Hoàng
đứng bán, làm kế sinh nhai… làm Hoàng tối mắt gật đầu bán mình. Khổ
nỗi, trong giới giang hồ Hoàng chỉ thuộc hàng “chiếu dưới”, án tù cũng
nhẹ, không thể “ngồi cùng mâm” với Lâm chín ngón, để có cơ hội tiếp cận
và hạ sát địch thủ. Nhằm tạo cơ hội cho Hoàng, Sơn đã tốn công vạch ra
một kế hoạch chi tiết nhằm giúp Hoàng… tăng án, “được” ngồi biệt giam,
đồng thời nâng uy tín trong làng dân chơi chứ không vì tăng án mà gây
thù hằn, xích mích với một kẻ nào khác.
Trong trại Chí Hoà có một cai ngục là trung sĩ Cách, cháu ruột gọi
phó giám thị trại bằng cậu. Ỷ thế, tên này rất “bố láo”, luôn tìm cách
ăn chặn, phá phách đồ thăm nuôi của tù nhân. Đám tù rất ghét nhưng không
tên nào dám ra tay. Một hôm, sau khi nghe các “đàn anh” ta thán, Hoàng
đầu lâu xung phong: “Để em thịt nó cho”. Kỳ thăm nuôi đến, khi Cách đang
xăm soi hũ thịt rim, bẻ đôi từng cái bánh để khám xét thì một tên tù tự
giác đến rót vào tai hắn: “Trung sĩ, có người muốn gặp riêng”. Tưởng
được hối lộ, Cách bỏ ngay việc theo tên cò đi vào phía trong. Không ngờ,
Hoàng đã núp sẵn. Ngay khi Cách bước vào liền cầm thanh mã tấu nhằm mặt
chém đứt lỗ mũi của tên trung sĩ. Máu xối ra, Cách ôm mặt quằn quại…
Với chiến tích này, Hoàng đầu lâu nghiễm nhiên trở thành “dân chơi
thứ thiệt”, được giới giang hồ kiêng nể. Trong khi đó, tội nặng thêm, y
bị tống xuống khu biệt giam. Ở ngoài, Sơn lại vung tiền lo lót với giám
thị, cai tù. Kết quả là hai tháng sau, Hoàng đã ôm giỏ đồ của mình
chuyển sang ở cùng một buồng giam với Lâm chín ngón. Kinh nghiệm sống và
những lời thì thào to nhỏ trong đám giang hồ đã giúp Lâm thừa biết
Hoàng sắp làm gì, nên cũng âm thầm chuẩn bị.
Nhờ đàn em bên ngoài kiếm cho một chiếc quai đeo ba lô hình chữ X
bằng inox cho vào quả bí đỏ chuyển vào tù, Lâm mài mỏng thành con dao
nhọn hoắt. Sau đó nhờ người mua hộ một chai rượu Remy Martin mời Hoàng
uống. Say rượu, Hoàng lăn ra ngủ. Lâm bèn bảo Lý “lắc”, cậu bé ở chung
buồng giam chuyên phục vụ trà nước đấm bóp cho Lâm đun nồi nước tắm. Khi
nước sôi sùng sục, Lâm bê nguyên cả nồi đổ ụp xuống mặt Hoàng. Hoàng
thét lên, quằn quại, nhưng không thấy đường để chạy. Rút dao đã chuẩn bị
sẵn, Lâm đâm lên hồi vào người Hoàng mặc cho tên này van xin. Chỉ đến
khi Hoàng đầu lâu cong người lên, ngáp ngáp mấy cái nằm im, Lâm mới
ngừng tay. Tất cả 37 nhát. Lý “lắc” kinh hoàng đứng nép vào góc tường
bưng mặt so vai mà không dám khóc. Cuộc giằng co xảy ra khá nhanh và bất
ngờ. Khi Lâm đập ầm ầm vào cửa sắt báo mình đã giết người, viên cai
ngục đang ngủ gật vẫn không tin. Lúc chạy vào, nhìn xác Hoàng hoen máu
nằm thẳng đơ trên nền gạch, viên cai ngục mới thất kinh hỏi: “Sao mày
giết nó?”. Vứt dao, Lâm đứng thừ người: “Tôi không đâm nó, nó cũng giết
tôi”.
Lâm chín ngón lại bị tống vào biệt giam. Ở ngoài, Sơn đả vẫn *g lộn.
Nhưng chưa kịp nghĩ ra cách giết Lâm thì chính Sơn lại bị giết chết.
Cũng như em ruột là Cương võ sĩ, Sơn bị hạ vì sĩ diện và bỏ mạng bởi đàn
em: Phạm Bá Y, tức Y cà-lết.
Sau năm 1975, với những tội lỗi đã gây ra, Lâm chín ngón tiếp tục
phải sống một thời gian dài trong nhà tù của * mới, chuyển qua nhiều
trại giam từ Chí Hoà đi Côn Đảo, về trại cải tạo Cà Mau (năm 1977), sang
trại Z30D Hàm Tân, Bình Thuận (năm 1982), lại chuyển qua trại Phú Sơn,
Phú Khánh. Năm 1988, sau hơn 20 năm tù tội, Lâm được trả tự do, trở về
TP HCM, làm đủ nghề kiếm sống. Năm 1993, Lâm cưới vợ và sinh con, lo chí
thú làm ăn, mong muốn đoạn tuyệt hẳn với giới giang hồ.
Nhưng nghiệp chướng đã trót đeo đẳng, chưa chịu buông tha cho Lâm
“rửa tay gác kiếm”, an phận với cuộc hoàn lương. Một ngày cuối năm 1994,
gặp 3 tên giang hồ mới nổi là Trúc lùn, Khải nheo, Tùng nhĩ ở quán thịt
chó, Lâm đã nhận lời xuống vũng Tàu đòi Minh Samasa phải tìm cách lấy
lại xe máy cho đàn em. Nguyên do là vợ chồng Đức năm nghệ – Sương
L’Amour nhận lời cho đàn em xuống Vũng Tàu giúp Minh Samasa đuổi đánh
đối thủ cạnh tranh là Phước đầu lâu, Hải lộ. Sau cuộc hỗn chiến, bọn
Trúc và một số tên ở lại phá phách, bị công an tạm giam và tịch thu xe
máy.
Khi xuống Vũng Tàu, Lâm được Minh đón tiếp niềm nở, đồng thời tổ chức
nhiều chuyến ăn chơi du hí, rồi mời hợp tác làm ăn. Thấy nguồn lợi quá
lớn (đám Dũng ba lém, Minh samasa tên nào cũng giàu sụ), Lâm chín ngón
đồng ý. Sự có mặt của Lâm ở Vũng Tàu đã khiến cho các nhóm lưu manh khác
khiếp vía, dạt ra hết, tạo điều kiện cho tụi Dũng, Minh độc chiếm cảng
cá, tha hồ nâng hạ giá, bán mua tuỳ ý để làm giàu. Đổi lại, Lâm chỉ việc
chường mặt ra cảng nhưng không phải mó tay vào bất cứ việc gì. Mọi chi
phí ăn uống chơi bời đều được “bao cấp”, kèm sổ lương 5 triệu
đồng/tháng. Minh và Dũng còn sắm cả xe máy cho Lâm để “đàn anh tiện đi
lại làm việc”.
Thấy đất Vũng Tàu làm giàu quá dễ, Lâm nảy ra ý đồ làm ăn riêng,
quyết không để đám tài phiệt cảng cá “lợi dụng tên tuổi mình mãi”. Ngay
sau khi Lâm tuyên bố dự định này, lũ đàn em liền tức tốc gọi vợ chồng
Đức – Sương xuống Vũng Tàu, gây áp lực để đuổi Lâm. Tuy “có số có má”,
nhưng thân cô thế cô, không đương đầu nổi với liên minh tài phiệt kia
nên sau vài tháng “chiến tranh”, Lâm chín ngón ngậm ngùi chạy trối chết
khỏi Vũng Tàu để giữ mạng sống và “giữ tiếng trong giới giang hồ”.
Hai năm sau, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ra quân xoá sổ nạn bảo kê
lộng hành trên các cảng cá ở đây. Minh samasa và nhiều tên trong đám
tài phiệt cùng nhau vào tù. Thấy vậy, Lâm lại rắp tâm quay lại độc chiếm
cảng cá, nhưng cũng không xong do Đức năm nghệ bắn tin: “Nếu Lâm chín
ngón mò xuống Vũng Tàu, mạng sống của Lâm và gia đình sẽ không được bảo
đảm”. Thấy trước không chơi được, Lâm đành tạm bằng lòng với vị trí ông
chủ quán thịt chó, sáng chở con đi học, tối đón con về.
Mọi chuyện tưởng chừng đã yên, bất ngờ tai vạ bỗng chụp lên đầu Lâm
chín ngón(bị đàn em của Năm Cam tạt axít). Nhưng anh ta không hề có ý
định trả thù và luôn cho rằng, kể từ nay, Lâm chín ngón không còn tồn
tại nữa. Đúng hơn, trong giới giang hồ không còn hiện hữu cái tên Lâm
chín ngón.
Năm Cam
Năm Cam (giữa)
Sài Gòn những năm đầu thập kỷ 50,trong ký ức đã bạc mầu thời gian
của Năm Cam, là một vùng đất thưa người, hoang vắng và ngoài kỷ niệm
tuổi thơ, chẳng còn gì gọi là hấp dẫn.
Thuở ấy,con kinh chạy dài từ đầu Cầu Quay đến tận Chợ Lớn còn sạch
lắm. Nước lên xuống theo thủy triều và đủ để cho lũ trẻ con ở truồng
nhồng nhỗng lặn hụp suốt ngày chơi trò thủy chiến.
Quận 4, nơi sinh ra và lớn lên của Năm Cam-lúc ấy là mảnh ruộng đồng
đầy ao vũng, sình lầy và lắm muỗi mòng.Còn nhớ, cho đến tận những năm
đầu thế kỷ, nơi này còn có cả lũ cá sấu hoa cà dữ tợn từ Rừng Sác-Cần
Giờ tìm về gây họa.
Những khu xóm lụp xụp tối tăm,ban đêm được soi bằng những bóng đèn
dầu hột vịt hoặc tệ hơn, bằng ánh trăng huyền hoặc.Năm Cam đã trưởng
thành từ nơi khốn khó,
chẳng trách y có một tham vọng đổi đời bất chấp mọi thủ đoạn để dành thắng lợi.
Cha của Năm Cam tên thật là Trương Văn Bưởi-còn được gọi là ông Mừơi
Củi, đó chính là lý do khi có ai đó nói đùa với y: Chanh,Tắc(quất)gì
cũng được, nhưng nói đến Bưởi và Quýt thì không xong!Đã rời bỏ quê hương
Quảng Nam để vào đất Sài Gòn sinh sống từ những năm 30. Nghe đâu ngoài
Tư Xẩm, Năm Cam, hai ông bà Mười Củi đã ngậm ngùi bỏ mất hai đứa con
trai ở quê cũ vì không có tiền mua thuốc trị bệnh. Đó cũng chính là
nguyên nhân hai vợ chồng quyết tâm ra đi không chút quyến luyến và gần
như quên đi rằng họ từng có một quê hương nào đó xa vời vợi tận miền
Trung. Khát vọng đô(i đời thoát nghèo đã buộc họ ra đi.
Năm Cam đã ngỡ rằng ngoài cha mẹvà chị Tư Xẩm, chẳng còn ai để nó gọi
bà con. Thế nhưng, vào một buổi chiều tối, cha nó dắt hai chị em ăn mặc
tươm tất, tương đối khá hơn cái gọi vựa củi của ông già Mười nhiều. Năm
Cam và Tư Xẩm được giới thiệu với người đàn bà chủ nhà, và được đeo
tang ông chồng của bà chủ nhà vừa chết. Từ đó, trong trí óc non nớt của
Năm Cam đã ghi nhận được rằng: ở ngôi nhà tại chợ Xóm Chiếu này, cha nó
có một người em gái tên là Trương Thị Quýt. Chồng của cô Quýt vừa chết,
Năm Cam và Tư Xẩm phải gọi là dượng- Dượng Thừa, một ông dượng mơ hồ xa
lạ dù hoàn toàn có thật.
Nhưng cũng mối quan hệ bà con duy nhất này đã dạy cho Năm Cam một bài
học, quan trọng và đầy chua xót khi nó đã bắt đầu lớn khôn đủ nhận thức
về một thế giới phức tạp đầy dẫy chuyện tồi tệ ở chung quanh. Một thế
giới quan khắc nghiệt đã định hình bởi bài học cay đắng ấy.
Ngày ông Mười Củi dắt hai đứa con đến đám tang của chồng em gái trờ
về, ông bắt đầu ngã bệnh và các triệu chứng của căn bệnh lao phổi thời
kỳ cuối cùng. Đó là kết quả của công việc lao động quá sức để nuôi vợ và
hai con.
Được gần hai năm, ông Mười mất. Năm Cam còn nhớ, lúc cha chết, những
chiếc xe của phòng thông tin chạy rông khắp ngõ phát ra rả trên loa: “
Nghe vẻ nghe ve, nghe vè Bảo Đại….”. Nhờ vậy sau này, một người bạn trí
thức của Năm Cam có thể khẳng định được năm ông Mười qua đời là năm
1955, năm * Ngô Đình Diệm chơi trò trưng cầu dân ý để phế truất Bảo Đại
khỏi cương vị quốc trưởng và bắt đầu cho việc lập nền đệ nhứt cộng hòa.
Cô Quýt cũng được báo tin dữ bởi đích thân bà chị dâu nghèo khổ.
Không khác gì một người khách vãng lai, cô Quýt ghé đến đám ma thắp một
nén nhang, uống vội một ngụm trà, và dúi vào tay chị dâu một ít tiền
phúng điếu trước khi bước lên Taxi ra về. Nét mặt cô như một tảng nước
đá, không buồn cũng chẳng vui.
Lúc ấy, trí óc non nớt của Năm Cam chưa cho phép nó hiểu rằng người
cô cư xử hết sức xấu với gia đình người anh, cô Quýt thậm chí không buồn
có mặt khi hạ huyệt. Đối với cô đến thắp nhang ông anh đã là tốt lắm
rồi.
Về sau khi chớm hiểu cuộc đời, Năm Cam đã hiểu được một điều rất đơn
giản nhưng cũng là nổi ám ảnh suốt một đời của một gã giang hồ ít học:
Phải giàu có dù bằng bất cứ cách nào: nếu nghèo khó- những điều đơn giản
và dễ hiểu nhứt như tình thân bằng quyến thuộc, cũng đừng hòng!
Bài học càng rõ nét hơn khi bà Mười, vào một lúc quá bế tắc, đã dắt đứa con đến tìm con của cô Quýt nghe đâu rất khá giả.
Hai mẹ con cùng đi chân đất, đầu trần giữa một buổi trưa Sài Gòn đầy
nắng và bụi, đến đứng tần ngần trước cửa hàng tạp hoá bề thế của Sang-
đứa con trai đầu của Dưỡng Thừa và cô Quýt. Anh ta thờ ơ theo kiễu một
con buôn.
- Xin lỗi, thực ra tôi cũng chẳng nhớ là có một người bà con nào, nếu
có hẳn mẹ tôi nói cho chúng tôi biết rồi chứ!? Sang nói một cách lạnh
lùng sau khi quan sát kỹ cách ăn mặc của hai mẹ con của người muốn nhận
họ hàng với gã. Chắc mối quan hệ thân quyến này chẳng mang đến cho gã
chút lợi lộc nào mà ngược lại, sẽ làm cho gã hao tốn không ít thời giờ
và tiền bạc. Với bản chất một con buôn, Sang hiểu- tốt nhứt là gã nên vờ
đi là xong! Theo thói đời, cách xử sự ấy hoàn toàn hợp lý…
Bà Mười tủi thân bật khóc rồi dắt con trai quay về. Cuộc sống nghèo khó rồi cứ thế tiếp diễn.
Mỗi buổi, bà lọ mọ mua về ít khoai, bắp bên vựa và luộc lên bán quẩn
quanh trong xóm cho lũ trẻ con trong bụng ỏng eo. Năm Cam, dù mới chỉ
mười hai, muời ba tuổi đầu cũng biết cùng bọn đồng trang lứa qua khu chợ
cá Cầu Ông Lãnh, Cầu Muối để xoáy từng con cá, củ khoai về “cải thiện”.
Đối với những cư dân làng Khánh Hội lúc bấy giờ, đó là lẽ tất nhiên,
chẳng có gì là lạ. Sống tươm tất, đó mới là chuyện đáng lưu ý…
Và rồi Tư Xẩm có chồng. Chồng cô là một tay anh chị có chút ít tiếng tăm ở địa phương: Bảy Xi- tên thật của Nguyển Văn Xi.
Thực ra Bảy Xi không phải là người sống ở hẻm Chủ Phước. Cha mẹ của
Bảy Xi có nhà cửa ở chợ Xóm Chiếu. Anh ta đến hẻm chôn nhau cắt rốn của
chị em Năm Cam do mối quan hệ giang hồ với Mười Sở, một tay giang hồ có
máu mặt ở khu Cống Lấp.
Như bất kỳ một cuộc tình nào khác xảy ra ở một vùng đất nghèo khổ,
sình lầy này, Bảy Xi yêu và cưới Tư Xẩm thật gọn gàng chóng vánh khi cô
gái chớm bước qua tuổi mười tám. Tình nghèo thuở ấy như vậy là phổ biến.
Chỉ là một mâm cơm tương đối gọi là, với khách mời duy nhất là Mười
Sở, Bảy Xi ra mắt mẹ vợ và sống tạm ở căn nhà rách nát ấy một thời gian
ngắn, trước khi đưa vợ về ở chung cùng cha mẹ mình.
Bảy Xi có một nghề để kiếm tiền mà hiện nay, cách kiếm tiền ấy không còn bắt gặp đâu trên toàn cõi Việt Nam nữa.
Không đẹp trai, chân lại bị khập khiễng, bù lại Bảy Xi có giọng ca
khá mượt đủ làm xiêu đổ trái tim các cô gái lối xóm hằng đêm tụ tập ở
phong ten nước. Bằng giọng ca trời phú, Bảy Xi mỗi ngày ôm một xấp bài
tân cổ thời thượng đi khắp các hóc hẻm Sài Gòn để bán. Tất nhiên, muốn
bán được một cách dễ dàng với số lượng nhiều, Bảy Xi phải ca thử, ca một
cách hết sức ai oán mùi mẫn.
Theo chân anh rể, năm Cam cũng bắt đầu biết đến một Sài Gòn khác hẳn.
Một Sài Gòn với những đường phố rộng thênh thang, nhà cửa tráng lệ,
người mua bán tấp nập. Sài Gòn được biết đến sau này khác xa với Sài Gòn
tuổi thơ của Năm Cam, có không ít trò lừa lọc và lối cư xử có không ít
tàn nhẫn.
Tư Xẩm chuyển qua buôn bán nồi niêu xoong chảo bằng nhôm và bắt đầu chuẩn bị cho đứa con đầu lòng chào đời.
Bảy Xi đưa vợ về hẻm Sáu Căn ở Tôn Đản để thuê nhà.
Đúng với tên gọi của nó, hẻm 148 thời bấy giờ chỉ lèo tèo vài căn nhà nằm lọt thỏm giữa một bãi tha ma tiêu điều quạnh vắng.
Thọ, đứa con trai đầu của Bảy Xi và Tư Xẩm đã ra đời trong một căn
nhà mái lá, vách phên tre vào năm 1957, năm mà Bảy Xi vẫn tất bật với
công việc mua bán bài nhạc một cách lương thiện.
Mỗi chiều, Năm Cam lại theo lũ bạn ra cây cầu Ông Lãnh để tắm táp,
vui đùa. Thuở ấy, bọn trẻ có thể nương theo dòng nước để lội từ Cầu
Chông đến tận chợ Cầu Cống mới trèo lên con lộ nhựa trèo về nhà. Vài năm
sau khi về ở hẻm Sáu Căn, Bảy Xi sinh tật có thêm vợ bé.
Tuy vậy, anh ta vẫn quan tâm đến Tư Xẩm và đứa con mới chập chững biết đi.
Hai mẹ con Năm Cam ở căn nhà phía ngoài, còn Tư Xẩm ở trong sâu. Khi
hai vợ chồng cãi nhau kịch liệt về việc vợ bé- vợ mọn của Bảy Xi, Tư Xẩm
dứt khoát: “ hoặc thôi vợ bé, hoặc đi luôn!”. Bảy Xi bỏ đi. Thế là Tư
Xẩm bế luôn đứa con trai về với mẹ trong một căn nhà tồi tàn rách nát
cách đấy không xa.
Rất nhiều năm sau này, Năm Cam cố nhớ lại vì sao cả Bảy Xi lẫn mẹ con
Năm Cam lại tìm đến hẻm 148 Tôn Đản này để sinh cơ lập nghiệp. Phần Năm
Cam và mẹ thì rõ rồi, họ phải theo vợ chồng Bảy Xi đi bất kỳ nơi đâu để
tồn tại, dù tồn tại theo kiễu hết sức khổ cực. Còn Bảy Xi?
Hoá ra, người rủ Bảy Xi về hẻm Sáu Căn sinh sống là anh Bảy Huê Kỳ.
Anh Bảy Huê Kỳ là một tay kỳ bẻo có tầm cở nhứt nhì Sài Gòn lúc bấy giờ,
nhưng nghèo rớt mồng tơi. Có tay nghề giỏi nhưng vẫn có thể chết đói
nếu không biết liên kết và thiếu kế hoạch, Năm Cam đã nghiệm ra được như
vậy ở tấm gương anh Bảy Huê Kỳ.
Để phụ giúp gia đình, Năm Cam theo bạn bè gia nhập đội ngũ những kẻ bán xà bông bột quanh chợ Bến Thành.
Mỗi bịch xà bông bán được chỉ đem đến mười xu lãi nhưng nếu mỗi ngày
nếu chịu khó đi cho đến cặp chân mõi rũ rượi, Năm Cam cũng có thể mang
về nhà được hơn chục đồng bạc.
Năm Cam đó được một người bạn thân mồ côi cha mẹ cũng làm nghề đi bán
dạo xà bông như nó. Bé Tám ở chung nhà với anh chị nhưng cũng được
giành cho một không gian riêng biệt ở phía sau và thường rủ thằng bạn
quận 4 quí hóa về ngủ qua đêm trên chiếc ghế bố hẹp bốc mùi ngai ngái.
Tuy là một đứa trẻ con loắt choắt vì thiếu ăn và phải bươn chải nhưng
Năm Cam đã thực sự trưởng thành theo cách nhìn của bọn giang hồ lưu
manh từ năm 14 tuổi. Nó theo chân các ông anh trời ơi ở khu Cống Lấp để
đáp xe buýt lên ngã ba Chú Ía, trong tay cầm chặt tờ giấy bạc hai mươi
đồng!
Cô gái mặt bự phấn cười rũ ra khi nhìn thấy thằng trẻ con đang thập
thò núp sau lưng gã anh chị mặt mũi cô hồn mình xâm chằng chịt!
- Nó à? Cô gái hỏi gã đàn anh của Năm Cam khi đã ngừng trận cười
*
* *
Sau lần tìm hiểu đàn bà đầu tiên trong đời, Năm Cam trở nên dạn dĩ,
nó sẵn sàng đi một mình khi thấy rủng rỉnh ít tiền trong túi. Tệ hại
hơn, như những hạt cỏ dại khác mọc xô bồ ở mảnh đất phức tạp ở quận Tư,
nó cũng tham gia hầu hết các trò đồi bại của bọn trẻ con quỉ quái. Nó
cũng bơi dọc theo bờ kinh để rình rập những phụ nữ sơ hở trong lúc tắm
táp vệ sinh và cũng chẳng từ cơ hội nào để thỏa mãn trí tưởng tượng hết
sức phong phú về tình dục của nó.
Cho đến một ngày nọ…
Ơû chợ Bến Thành, nó và bé Tám có một bà chị nuôi rất xinh đẹp và tử
tế. Nguyệt, tên cô gái-năm ấy 23 tuổi, sống bằng gánh trái cây và quen
biết Năm Cam qua sự giới thiệu của bé Tám.
Chính cô cũng không ngờ thằng trẻ con láu lỉnh, khéo ăn nói và nhiệt
tình phụ giúp cô mỗi khi dọn hàng, lại có thể nhìn cô với kiểu nhìn hết
sức dung tục, đồi bại.
Hai chị em quấn quýt nhau những ngày mưa gío buôn bán ế ẩm. Công việc
buôn bán xà bông của Năm Cam tỏ ra nhiều thời giờ rảnh hơn cô gái nên
nó giúp đỡ cô khá nhiều.
Hôm ấy, trời đổ mưa to. Nhìn cơn mưa ngày lúc càng nặng hạt không có dấu hiệu gì sẽ chấm dứt. Nguyệt thở dài với đứa em nuôi:
- Kiểu này chắc dọn về luôn chớ buôn bán gì nữa?
Năm Cam hăng hái lao vào trong mưa để gọi xích lô và nó thoăn thoắt
dọn hàng cho cô chị nuôi lên xe. Tất nhiên khi dọn xong, đầu tóc nó ướt
đẫm.
- Thôi, lên xe về nhà chị…để ướt đầu cổ thế này bệnh chết! Cô nói.
Cô ngồi lên ghế, hàng và đỗi quang gánh đặt dưới chân. Năm Cam lay
hoay chẳng biết phải ngồi vào đâu. Nguyệt phì cười, cô ngoắc tay:
- Leo lên đây, ngồi vào lòng chị nè ông tướng!
Nó mừng rỡ trèo lên xe ngồi lọt tỏm vào lòng cô chị nuôi xinh đẹp.
Nguyệt thoạt đầu cũng không nghĩ ngợi gì khi ôm thằng em nuôi trong
lòng. Thế nhưng khi xe chuyển bánh, sự cọ xát giữa hai cơ thể khác giới
khiến cô có chút bồi hồi. Tấm bạt che, đủ để những tư tưởng đồi bại phát
sinh, và đủ để hai chị em không cùng huyết thống bớt đi sự xấu hổ cần
thiết. Nguyệt bất giác thở dài rồi ghì xiết vòng tay ngang bụng thằng
bé…. Nó cũng chẳng phải là trẻ con như ngoại hình loắt choắt dễ đánh lừa
tâm lý phòng thủ của phụ nữ, nên cũng bắt đầu giở trò.
Nguyệt không còn tự chủ, cô nói nhỏ vào tai đứa em nuôi:
- Em có thương chị Nguyệt không?
Dĩ nhiên là Năm Cam gật đầu. Về đến nhà, cô đưa thằng em nuôi ra sau
nhà tắm rữa rồi rúc vào phòng riêng trước cái nhìn không chút nghi ngại
của gia đình.
Từ đó, Nguyệt luôn tranh thủ cơ hội để bày trò với Năm Cam.
Tất nhiên, sau đó ít lâu, Nguyệt có thai. Cô giấu biệt tác giả cái
bào thai với gia đình vì làm sao thuyết phục được mọi người thân đồng ý
với “ cuộc tình” trái khoáy của cô với đứa em nuôi mới 15 tuổi đầu!
Đứa con trai đầu tiên của Năm Cam ra đời trong hoàn cảnh như thế và
mãi sau này, ngay cả với nó, Năm Cam cũng không bao giờ kể lại một cách
cụ thể mối quan hệ của Nguyệt và y.
Nguyệt đặt tên cho đứa bé là Trương Văn Hùng và bế con giao lại cho
Năm Cam. Cô không thể tiếp tục quan hệ với Năm Cam bởi áp lực của gia
đình và một phần vì cô, vốn là một phụ nữ xinh đẹp hiếm có, làm sao có
thể chấp nhận lấy một đứa trẻ con không mấy gì xuất sắc, điển trai.
Chẳng qua đó cũng chỉ là nỗi đam mê nhất thời trót gây ra hậu quả mà
thôi!
Cũng lại là chị Tư Xẩm, thương em trai nên phải è cổ gánh luôn trách
nhiệm nuôi thằng con trai của Năm Cam. Chị đặt cho nó cái tên Hai *,
theo thông tục của các gia đình ít học để tránh bệnh tật, tai ương cho
thằng bé.
Tuy nhiên, đối với bất kỳ ai, Hai * không hề là con trai của Năm Cam
và coi như Năm Cam chưa từng có vợ. Ai có thể tưởng tượng nổi một thằng
nhóc loắt choắt mới 15 tuổi đầu như Năm Cam đã lên chức bố? Càng lớn,
Trương Văn Hùng giống như Năm Cam như tạc…
Hẻm Sáu Căn có thêm một thành viên mới, nghe đâu rất có máu mặt.
Năm Cam nghe lũ bạn kháo nhau nên cũng quay về để xem “ ông Mười Côn Lôn là ai ?”
Nô Cao Giò, một thanh niên ở xóm cũng thuộc vào loại “ có tiếng nói”
do đã có lần tù tội. Lúc bấy giờ, việc đi ở tù là ghê gớm lắm, trừ những
ai đi làm quốc sự, ngoài ra-đều được nhìn với ánh mắt e dè sợ sệt.
Mười Côn Lôn được Nô Cao Giò đưa về xóm giới thiệu với bạn bè đồng trang lứa: “ Anh Mười đàn anh của tao!” .
Lời giới thiệu không cần dài dòng nhưng hết sức hiệu quả.
Năm Cam không cần biết nhiều, như thế đã quá đủ để nó và các bạn ngưỡng mộ Mười Côn Lôn lắm rồi.
Có một lần “ anh Mười” làm Năm Cam phải thất vọng.
Một rừng không thể hai cọp, huống hồ con cọp đến sau chưa có một thành tích nào khả dĩ thuyết phục các hảo hán địa phương.
Hẻm 122 nổi danh đã từ lâu về việc cung cấp hàng loạt anh chị cho
giới giang hồ bến tàu, đâu thể chấp nhận một tay lạ hoắc nào đó đến xưng
hùng xưng bá ở con đường Tôn Đản này?
Thế là một buổi chiều tối, hai anh em Được-Lót, xếp sòng hẻm 122 dắt
một tốp em út cỡ vài chục mạng, mang theo dao bầu, mã tấu, gậy gộc,
xuống thẳng hẻm 148 để tìm anh Mười Côn Lôn với mục đích thử lửa xem là
vàng thật hay vàng dỏm!
Vừa bước trong nhà ra chưa tới đầu hẻm, Năm Cam đã lãnh luôn một gậy
vào lưng! Khổ thân thằng bé, mới 14-15 tuổi, biết gì chuyện tranh bá đồ
vương của các bậc đàn anh, nhưng vẫn bị đối phương xem là “ đàn em của
Mười Côn Lôn” để nện với mục đích buộc Mười Côn Lôn phải lộ diện ứng
chiến.
Tất nhiên Mười Côn Lôn không phải là thằng ngốc!
Diễu võ dương oai suốt cả giờ đồng hồ vẫn không thấy tướng địch xuất hiện, Được-Lót hạ lệnh thu quân.
Mãi đến lúc đó Năm Cam mới lóp ngóp chui lên từ mé ao cạn, vừa vào
nhà tắm rửa giặt giũ vừa làu bàu trách “ ông Mười” tại sao không ra mặt
để đối phương đừng “ khi dễ”!
Tuy nhiên, cũng qua sự việc trên-Năm Cam cũng rút ra được một bài
học: đừng vì hai chữ anh hùng mà húc đầu vào đó! Khi cần, vẫn có thể
chịu nhục mà lánh thân, miễn là bảo toàn được tánh mạng, danh tiếng vẫn
còn lấy lại như thường!
Đầu năm 1962, mẹ Năm Cam qua đời sau một cơn bạo bệnh.
Năm Cam đã trở thành một kẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời của Năm
Cam đã lật sang trang mới, cay đắng và khốc liệt hơn trước nhiều
Sau này khi có được một chút gọi là sự nghiệp, việc đầu tiên Năm Cam làm là: dọn nhà ra khỏi khu hẻm Sáu Căn!
Giải thích cho việc này, Năm Cam chỉ nhúng vai với giọng khôi hài : ….
- Cứ ở đây miết, trong xóm lấy trong xó… tới lúc nào mới ngửa mặt
nhìn đời nổi, hồi đó tụi mình cũng vậy… vợ chồng cùng xóm không hà!
Quả thực, như một phong trào, thanh niên nam nữ thời Năm Cam có đi đâu xa hơn con đường Tôn Đản để kén vợ tìm chồng?
Thoạt đầu anh Mười Côn Lôn với mã ngoài đẹp trai, đàn giỏi hát hay,
đã cưa đổ chị Kiên cùng xóm. Họ nên vợ nên chồng bất chấp sự ngăn cản
của cha mẹ chị Kiên vốn sợ có một anh con rể là dân anh chị. Kế đến, Nô
cao giò lấy chị Nữa- em gái của anh Mười Côn Lôn.
Năm Cam, dù lúc ấy còn là một cậu bé con 16 tuổi, chộn rộn với những
cuộc tình quanh phong ten, gò mã của các bậc đàn anh, cũng bắt đầu để ý
và xoắn xuýt cạnh một cô gái lớn hơn nó một tuổi.
Là con của một ông gác dan trường Maria Curie, Trúc theo chị Kiên vợ
anh Mười Côn Lôn đi gánh nước mỗi tối và được mọi người cắp đôi cho Năm
Cam.
Một vài lần họ cùng hẹn hò và cùng nhau uống đậu đỏ bánh lọt ở gần xóm ở gần xóm, một hành vi gan dạ của đôi lứa thuở bấy giờ.
Tư Xẩm thương em nên cũng nhờ người đến nói chuyện cùng bà Sáu, mẹ của Trúc. Bà Sáu cau mày trả lời:
- Hai đứa còn con nít trân, lấy nhau về rồi sống làm sao?
Buồn tình, Năm Cam bỏ nhà đi bụi…
Vợ chồng Bảy Long vốn thương Năm Cam như em thời còn ở hẻm Sáu Căn,
nay họ đã dọn qua khu trại gà Thanh Tâm, bèn cho Năm Cam tá túc.
Trúc lén mẹ theo chị Kiên đi qua tìm Năm Cam. Qua được vài lần, Trúc quyết định trốn theo Năm Cam.
“ Em gởi quần áo ở nhà chị Năm Cây, anh qua đó lấy về…” Trúc nói với Năm Cam.
Và thế là, năm 16 tuổi- chưa thực sự bước qua khỏi tuổi thiếu niên,
Năm nhgiễm nhiên có vợ và động trời hơn- chỉ vài tháng sau Trúc đã có
thai!
Bất đắt dĩ, Năm Cam đưa vợ về xóm cu’, Năm Cam đã bắt đầu cú trượt đầu đời.
*
* *
“Ê Năm Cam…anh Bảy của mày bị đón đường kìa!” Rễ Đen một thanh niên ở cùng hẻm chạy hớt hơ hớt hải vào báo.
Buông chén cơm xuống bàn, Năm Cam lật đật chạy ra… Đi ngang ngạch
cửa, Năm Cam rút luôn con dao lạn cá của Tư Xẩm dắt từ lúc trưa.
Vừa ra đến đầu hẻm 148, Năm Cam nhìn thấy chiếc xe đạp nằm chỏng chơ
giữa lộ nhựa. Được, Lót- hai anh em khét tiếng của con đường Tôn Đản
đang vây Bảy Xi và Nô cao giò.
Chợt Được vung dao. Nô cao giò dính một nhát vào lưng vội co giò
chạy. Ngay lập tức Lót ôm chặt hai tay Bảy Xi cho em trai vung con dao
phở chém tới tấp.
Bảy Xi cố vùng vẫy nhưng vô vọng bởi sức khoẻ của Lót hơn anh ta xa.
Trúng liên tiếp mấy nhát dao, trong đó có nhát ở gần cổ khá sâu, máu
loang ướt cả chiếc áo Bảy Xi đang mặc, Bảy Xi coi như chỉ còn chờ chết.
Vừa chém hai anh em Lót-Được vừa chửi thề om tỏi.
- Anh Lót, buông anh Bảy tui ra…Năm Cam la lớn.
Thay vì buông ra, Lót cười lạt co giò đạp thằng nhóc phá đám đi chỗ
khác.Trong tíc tắc Năm Cam quyết định, nó rút dao đâm mạnh gần nách Lót
vói ý đồ làm anh ta bị đau phải buông Bảy Xi ra.
Vừa rút dao ra, máu từ hông nạn nhân đã vọt ra như ống nước bị bể!
Trong nháy mắt, vòng tay ôm Bảy Xi nới lỏng và Lót khuỵu xuống đất.
Thấy anh bị đâm, Được khựng lại. Bảy Xi chỉ chờ có vậy, vội giật lấy
dao trên tay Năm Cam lao vào. Ơû đàng sau, Nô cao giò đã quay lại với
khúc gậy tre trên tay vụt thẳng cánh vào tay Được.
Dính cả chục nhát dao vào vùng bụng, Được gục xuống, con dao phở văng ra khỏi tay…
“ Dọt lẹ!” Bảy Xi nói.
Bảy Xi, Nô cao giò và Năm Cam lập tức trốn qua nhà Bảy Long sau khi đi băng bó vết thương.
Ngay hôm sau, Tư Xẩm qua nhà Bảy Long báo cho cả ba biết: Lót đã chết
tại chỗ còn Được đưa đi cấp cứu,chưa biết cụ thể tình trạng sức khoẻ!
Nô cao giò, với bản tính đa tình, đã có cho mình một gia đình thứ ba
từ lâu, nay lập tức cuốn gói lên Lái Thiêu để ẩn náu. Bảy Xi dắt em vợ
đi theo Nô nhưng nhanh chóng nhận ra khó tồn tại nổi nếu bám vào cây cọc
mục là cô vợ bé của Nô cao giò. Cô ta chỉ quen được chiều chuộng và
chấp nhận làm vợ bé cho gã giang hồ quận 4 này vì có thể dựa hơi gã để
sừng sộ với các bạn hàng khác ở chợ. Nay Nô cao giò chỉ có thể chường
mặt vào ban đêm, không dám to tiếng với cả một đứa trẻ con, cô đâm ra
ngán ngẩm và tỏ ra thái độ không mấy gì niềm nở với cả ba kẻ đào tẩu!
Túng thế, Bảy Xi tìm cách liên lạc với gia đình. Dì Hai Ngọt, chị ruột của mẹ Bảy Xi, đã tìm lên để gặp cháu trai.
- Để tao liên lạc với thằng Đạo xem sao! Dì Hai Ngọt nói
Đạo, anh con trai lớn của gì Hai Ngọt, thoát ly gia đình để theo
kháng chiến từ sau ngày đạo luật 10/59 của cố vấn Ngô Đình Nhu ra đời,
đem máy chém đi khắp nơi chặt rơi khoảng hơn 3.000 cái đầu được coi là
*. Anh Đạo được tổ chức đưa vào chiến khu theo ngõ Tân Uyên – Bình
Dương. Nghe đâu, anh ta cũng có một chức vụ không xoàng…
Dì Hai Ngọt tổ chức đưa cả ba kẻ đào tẩu đến Bến Cát và tạm thời trú
ngụ ở một gia đình có cảm tình với Việt cộng. Vốn đã nhiều lần lui tới
thăm con trai nên mạng lưới liên lạc của chiến khu Tam giác Sắt đã thông
báo cho Đạo biết việc mẹ con anh ta đến tìm.
Sau cả tuần lễ chờ đợi. Đạo đột ngột xuất hiện vào lúc nửa đêm.
- Để tôi hỏi qua ý kiến của tổ chức mới được? Đạo nói.
Gần sáng Đạo ra đi mang theo toàn bộ lý lịch của cả ba nhân vật đang
trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật * Sài Gòn. Ơû lại, Bảy Xi và em
vợ thắp thỏm chờ đợi trong khi Nô cao giò vẫn không dứt khoát hẳn.
- Vào trong chiến khu để làm gì cớ chứ? Nô cao giò hỏi.
- Ít ra, cũng khỏi ở tù! Bảy Xi trả lời ngắn gọn.
- Nhưng cũng phải cầm súng đánh nhau, lỡ có gì…Nô rụt rè nêu lên ý kiến.
- Mẹ kiếp, sống chết có số… Cậu sợ gì? Bảy Xi cáu kỉnh.
- Nếu thế, thì vào trong chiến khu hay vô tù, có khác gì nhau cơ chứ?
- Sao không khác? Ơû tù… Vừa tính trả lời. Bảy Xi chợt nhận ra Nô cao
giò nói có lý. Với ai, có lý tưởng thì vào chiến khu cầm súng là mục
đích ở đời, còn với bọn giang hồ đâm chém như gã và Nô cao giò, vào tù
để sau đó ít lâu trở về xem ra có lý hơn! Tuy vậy, lỡ nhờ dì Hai Ngọt và
anh Đạo rồi, cứ chờ xem sao đã!
Năm Cam, với nhận thức còn non nớt của mình, chẳng để ý gì đến cuộc
tranh luận của hai ông anh. Tuy nhiên, nó lại tỏ vẻ thích thú khi được
đi đây đi đó, dù có phải trốn chui trốn nhủi…
Ba ngày sau, đột nhiên người chủ nhà gọi cả dì Hai Ngọt lẫn ba kẻ trốn chạy vào phòng khách để thông báo:
- Ở trong đó, mấy anh không chấp nhận việc bỏ vào chiến khu chỉ vì phạm pháp hình sự… Tóm lại, dì đưa mấy chú ấy về đi!
Thế là, cuộc đào tẩu bằng cách trốn vào chiến khu coi như bất thành…
“ Coi như để mình tôi chịu cho! Anh Bảy có về lo giùm vợ con tui…” Năm Cam nói.
Ba hôm sau, cả ba anh em lên xe hơi của luật sư TrầnVăn Trai một thành viên của * Cần Lao, đến trình diện ở văn phòng dự thẩm.
Họ được chuyển qua giam ở Khám Chí Hoà.
*
* *
Trung tá Luyến, giám thị trưởng trại Chí Hòa, theo hình dung của Năm
Cam là một người đàn ông ốm, cao và hách dịch. Oâng ta thường vào trại
với cây paton trên tay vụt vào đầu một ai đó mà ông cho là bất trị.
Chí Hoà lúc bấy giờ cũng khác về sau, chủ yếu công việc được giao cho
tù công vụ và mục tiêu cần bám sát của bọn an ninh là tù chính trị. Tù
thường phạm được giao hết cho Bé Bòn nếu vi phạm kỷ luật, riêng khu vực
BC- nơi giam Đại Cathay, trùm du đãng Sài Gòn, do Của Gia Định làm trật
tự.
Phòng đầu tiên cả ba anh em Bảy Xi, Nô cao giò và Năm Cam bước vào là 1B4, cách phòng Đại Cathay không xa.
Những câu chuyện về giới anh chị Sài Gòn liên tục vỡ ra trong Năm Cam nhiều điều hết sức lạ lùng.
Năm Cam nhận ra : nếu là một tay giang hồ có tầm cỡ, việc kiếm tiền
chẳng có gì là khó khăn và càng kiếm được nhiều tiền càng dễ tạo thêm
vây cánh, nghĩa là thêm thanh thế, danh tiếng!
Quan sát Đại Cathay từ xa và để ý từng cử chỉ, từng thái độ của người
được xem là số một của giới giang hồ, Năm Cam ngạc nhiên khi phát hiện
ra: Đại Cathay cũng hết sức bình thường chẳng có một ưu điểm phi phàm
nào.
Và Năm Cam đã được nhìn tận mắt một vụ *ng độ của cả hai tay anh chị thuộc vào loại nhứt nhì lúc bấy giờ.
Hôm ấy Ba gà-một anh chị hùng cứ khu vực Bến đò Thủ Thiêm, cùng Đại
Cathay đánh cờ tứơng. Hệt như hai đúa trẻ con xóm nhỏ ngoại ô, hai kỳ
thủ bắt đầu cãi nhau bởi một nước cờ. Cãi nhau càng lúc càng hăng, cuối
cùng thì:
- Nếu anh ngon, tui với anh chơi tay đôi! Đại Cathay nói.
- Được thôi… Ba gà nhận lời thách thức.
Đại Cathay to lớn như hộ pháp và nổi danh lì lợm. Ba gà nhỏ con hơn nhưng nghe đâu “ nghề” rất khá.
Cuộc tỉ thí kéo dài suốt cả giờ đồng hồ đến độ cả hai chẳng ai giở nổi tay chân và được anh em của cả hai bên can ra.
- Mai tiếp! Ba gà tuyên bố.
- Chớ sao… Đại Cathay tiếp luôn.
Sáng hôm sau khi biết chuyện, những kẻ gác ngục ngay lập tức đem Đại
Cathay qua phòng giam khác trước khi xảy ra những chuyện tồi tệ hơn.
Năm Cam thoáng một chút suy nghĩ : làm anh chị kiểu đó coi vậy cũng
dễ chớ có nguy hiểm gì đâu? Với cách nghĩ ấy, Năm Cam bắt đầu cảm thấy
rạo rực bầu máy nóng và khát vọng đỗi đời bằng con đường tắt kiểu các
tay anh chị nó đã nhìn thấy…
Lưng Đại Cathay có một số thẹo nằm chằng chịt trên lưng, dĩ nhiên
toàn ở những nơi không mấy gì hiểm yếu… Năm Cam đem thắc mắc hỏi một tay
anh chị cùng băng Đại Cathay và được kể lại…
Vùng Aristô- Lê Lai, thuở ấy là nơi hùng cứ của Huỳnh Tỳ, Thế Cái và
Hùng Fox. Đại Cathay lọ mọ dẫn xác lên để giành lấy quyền lợi. Dĩ nhiên
băng Huỳnh Tỳ, Thế… đâu để yên.
Hùng Fox, Thế phục kích và dùng dao chém gục Đại Cathay.
Ngay hôm sau, Đại Cathay cùng các chiến hữu mở cuộc tấn công phục
thù. Buổi sáng, Huỳnh Tỳ và băng của y tụ tập ăn sáng uống cà phê ở
trước nhà hàng Lê Lai, Đại Cathay, Tư mỏ chuột, Nhứt…đi một chiếc Taxi
ập tới chém loạn xạ.
Sau cuộc trả thù vang dội ấy, Huỳnh Tỳ và các chiến hữu chấp nhận quy phục Đại Cathay.
Năm Cam chợt nghĩ khi nghe qua câu chuyện : nếu ra tay nặng hơn, liệu
Đại Cathay còn sống để phục thù hay không? Quả là thời bấy giờ, giang
hồ chỉ chém sơ sịa gọi là “ để thẹo”, chỉ có vậy cũng có thể thành danh,
mà như vậy, có gì là quá sức của Năm Cam?
Thế là liên tục Năm Cam lao vào các trận đánh nhau trong tù, dĩ nhiên
trong giới lóc chóc, cắc ké kỳ nhông trong con mắt của hạng tầm cỡ như
Đại Cathay.
Do quậy phá, đánh nhau, Năm Cam bị chuyển qua 3H2, phòng kỷ luật được
chuyển giao cho Bé Bòn- hung thần phòng an ninh quản lý. Tất cả tù nhân
khi chuyển qua phòng này đều sợ mất mật.
Bé Bòn hung ác có tiếng. Y vẽ một vòng phấn ở giữa phòng cho tên tù mới vào ngồi, đến tối sau khi đóng cửa, y mới tính sổ.
Loại nhãi nhép, Bé Bòn để cho đám đàn em tay chân làm thịt. Loại có tên tuổi, đích thân Bé Bòn ra tay.
Thanh Năm Nghệ, bạn thuở còn bé lăn lộn với thùng đánh giày với Đại
Cathay, người duy nhất dám gọi Đại bằng biệt danh xách mé: “ Huê kỳ ghẻ”
mà Đại vẫn cười hì hì, khi bước qua 3H2 cũng không được miễn trừ trận
đòn do đích thân Bé Bòn ra tay. Chỉ có điều, sau khi anh đòn, thành phần
có tên tuổi như Thanh, Sắc đầu lâu, Rớt võ sĩ, được Bé Bòn nâng lên
thành dạng tay chân thân tín.
May mắn cho Năm Cam, có lẽ ừ còn quá nhỏ tuổi nên Bé Bòn đặc cách miễn cho thủ tục chào phòng.
Và cũng ở 3H2, Năm Cam được chứng kiến một trận thanh toán lật đổ Bé
Bòn của Cấy Thị, Phúc đầu lâu, Ngọc đầu lâu… Một cuộc thanh toán hèn hạ
nhưng rõ ràng hết sức hiệu quả.
Bé Bòn to lớn như một gã Tây đen và võ nghệ đầy mình. Buổi tối, Bé
Bòn hút thuốc phiện nằm trên tấm nệm của mình, hai bên là hai cây sắt
dài được mài nhọn lểu để hộ thân.
Cấy Thị, một tay anh chị có tên tuổi ở vùng Cầu Muối, để chuẩn bị một
cục đá xanh lớn bỏ vào ống quần để sử dụng như một cái chuỳ. Cả bọn
tiến đến chỗ Bé Bòn nằm và kẻ giữ tay, người giữ chân cho Cấy Thị vụt
tới tấp vào mặt, vào đầu cổ Bé Bòn!
Cuộc thanh toán diễn ra chớp mắt đến độ Bé Bòn chưa kịp chụp lấy hai
thanh sắt của mình đã gục luôn tại chỗ. Thanh Năm Nghệ, ngay từ lúc Cấy
Thị bước qua phòng đã lặng lẽ trở cờ, đơn giản vì y cùng Cấy Thị vốn là
chiến hữu cùng vụ án buôn vải mới phải vào Chí Hòa!
Sau đó, Bé Bòn được chuyển đi bệnh xá và phòng kỷ luật 3H2 đương nhiên giải tán.
Năm Cam rút ra một điều từ vụ thanh toán Bé Bòn này, miễn là loại bỏ
được địch thủ , còn phương tiện gì, thủ đoạn nào cũng tốt cả!
Sau 18 tháng giam giữ, Năm Cam, Bảy Xi, Nô cao giò bước ra toà.
Cuộc đảo chính 1-11-63 lật đổ Ngô Đình Diệm và * gia đình trị đã buột
hàng loạt * viên Cần Lao phải đi tù, trong đó có cả ông luật sư Trai,
người biện hộ cho Năm Cam.
Do nhận việc đâm Được trọng thương, ngoài nhát đâm gây tử vong cho Lót, Năm Cam- dù 16 tuổi, vẫn bị kết án 3 năm tù.
Bảy Xi, Nô cao giò được trả tự do ngay tại tòa.
“ Em yên chí, hàng tháng anh sẽ trợ cấp cho vợ em nuôi nấng em đầy đủ…” Bảy Xi vỗ vai Năm Cam hứa một cách hết sức chắc nịch.
Bằng tiền bạc và sự vận động, Bảy Xi đưa Năm Cam qua đội Văn Nghệ của Chí Hoà với nhiệm vụ: nhắc tuồng và kéo màn!
Có lẽ trong lịch sử cải lương chưa bao giờ có kẻ nhắc tuồng hoàn toàn
mù chữ như Năm Cam và cũng chưa bao giờ có một thằng nhóc vào tù vì tội
giết người lại có thể cùng ban Văn Nghệ với nghệ sĩ cải lương số một
thời đó Thành Được!
Thành Được bị tù vì một tội hết sức dở hơi: để trốn lính, ông ta chấp
nhận làm mật vụ “kiểng” cho Trần Kim Tuyến và được cấp một khẩu ruleau.
Sau ngày đảo chính thay vì đi nộp khẩu súng, Thành Được dấu biến đi và
nghĩ rằng chẳng ai biết tới…
Giai đoạn này Năm Cam chứng kiến hàng loạt bi hài kịch của các nhân vật * Ngô Đình Diệm bị xộ khám.
Cảnh Ngô Đình Cẩn- cậu Uùt hay còn gọi là Mệ Trầu, nằm co quắp suốt
ngày cho đến hôm bị xử bắn, làm Năm Cam rùng mình khi nghĩ đến kết quả
của người dính líu đến chính trị.
Ngày chuyển các nhân vật chóp bu của Ngô triều đi Côn Đảo, họ dùng cá hộp, trứng và đủ loại quà cáp để ném vào quân cảnh.
Dưới lệnh của trung tá Luyến, Huỳnh Tỳ đãn toàn bộ du đãng Sài Gòn tấn công vào khu yếu nhân này.
Xe đưa họ ra đến cổng, gia đình họ còm làm trở ngại cho chuyến đi
bằng cách đỗi thật nhiều tiền cắc, tiền đồng vãi ra đường cho trẻ con
nhặt.
Huỳnh Tỳ vớ bẫm nhứt. Y lấy được hàng loạt hình ảnh vợ con của các
nhân vật chóp bu gỏi vào cho chồng, tất nhiên mặc toàn độ tắm và quần áo
hở hang. Đối vớimột tên du đãng, như thế là quá sức ngon lành!
*
* *
Sơn Vương, Trương Văn Thoại được đưa về Chí Hòa để chuẩn bị phóng thích sau hằng nữa thế kỷ giam cầm nơi Côn Đảo.
Thoạt đầu, ông ta được đưa về đội Văn Nghệ để viết tuồng, soạn kịch. Hải mặt mụn, một tay anh chị có tài đánh đàn, tuyên bố:
- Nếu đưa Sơn Vương về đội văn nghệ tôi nghỉ!
- Dĩ nhiên, tay đờn quan trọng hơn. Yhế là Sơn Vương ngậm ngùi về quản lý khu nhi đồng.
Một buổi trưa Hải mặt mụn thơ thẩn trước khu I ca vọng lên khu tù chính trị những bài ca não ruột.
“ Ê Hải mặt mụn, không đi ngủ đi, ca hoài vậy ?” Thạnh một thằng lỏi con nói xách mé từ sau song sắt.
Hải đỏ mắt. Dẫu sao y cũng lớn tuổi và cũng có tên tuổi.
- Thằng * nào vừa nói vậy? Hải hỏi một cách giận dữ.
- Tao nè! Cả bọn nhao nhao. Những trận cười rộ vang lên.
Giận quá mất khôn, Hải kéo cửa vào phòng nhi đồng toan hỏi tội kẻ láo
xược. Nào ngờ, như đã chuẩn bị trước, lập tức có hai tên lẻ ra ngoài
gài cửa lại. Bọn nhi đồng, do Sáu nhỏ và Thạnh đầu lâu ào ào xông vào,
trên tay là đủ loại vật cứng…
Hải mặt mụn tả xung hữu đột nhưng càng lúc càng đuối sức nên bị nện
vào đầu và máu me tung toé. Sơn Vương nằm ở chiếc ghế gần đó chỉ cười
khì. Hải mặt mụn so với ông ta, chỉ là thằng nhóc hữu dõng vô mưu.
Năm Cam và một số tù nhân thuộc đội văn nghệ nghe động chạy ra.
- Anh Hải bị hội đồng kìa tụi bay ơi! Ai đó la lên.
Năm Cam chụp cặp gươm bằng nhôm, ai cũng vơ lấy một thứ gì đó gọi là “ đồ chơi” để ào lên khi I.
Hung hãn như một kỵ binh Mông Cổ, Năm Cam vụt lấy vụt để. Thấy thằng
Thạnh ngã xuống đất, Năm Cam bồi luôn mấy gót chân vào hông. Thạnh ngất
đi bởi những cú đạp hiểm của Năm Cam…
Cho đến lúc giám thị chạy lên thì trận hỗn chiến đã ngưng với kết quả hết sức tồi tệ
Thạnh bất tỉnh nhân sự được đưa đi cấp cứu và toàn bộ những kẻ tham gia đều đi cùm ngay lập tức.
Đến tối, Thạnh vẫn chưa tỉnh. Thế là, theo yêu cầu của ban giám thị trại, cảnh sát quận 3 được gọi đến để lập biên bản.
May sao, vài ngày sau, Thạnh hồi phục.
Năm Cam bị tống lên khu Điện Aûnh. Vừa bước lên, một tù lao dịch đã nháy mắt cười và dặn:
- Ở vài bữa nhớ kêu lên là gặp ma * dài, sợ ma quỉ xin tha…
Đúng theo kịch bản, Năm Cam khóc lóc với trung tá Luyến.
Nó được tha ra khỏi kỷ luật nhưng, vượt ra ngoài qui luật, trại quyết định đưa nó xuống khu giam tù chính trị!
*
* *
Nhóm chính trị phòng OF4 vây quanh chú nhóc mặc đồ tây khác hẳn với qui luật thông thường. Họ hỏi tới tấp:
- Cưng ở cánh nào bị vậy? Cháu hoạt động ở vùng nào?
Câu trả lời của chú nhóc làm họ chưng hửng:
- Dạ, con ở trên lầu chuyển xuống!
- Uûa, kỳ vậy ta? Cưng tội gì? Ai đó hỏi.
- Con, tội đánh lộn đâm chết người… Năm Cam trả lời.
Họ đưa mắt nhìn nhau, đầy ngạc nhiên. Thằng nhóc chưa đến tuổi trưởng
thành này hẳn không phải là người do bọn an ninh nhà tùi cài vào để
theo dõi hoạt động của họ rồi, nhưng vì sao nó lại bị đưa vào đây? Tù
hình sự và tù chính trị có khi nào nhốt chung?
- Ơû trên đó có mấy anh lớn ăn hiếp con hoài, con canh tụi nó ngủ con đánh lén! Năm Cam giải thích qua loa.
Câu trả lời tạm thời giải toả được thắc mắc cho những người lớn. Họ hối thúc thằng bé:
- Thôi, thu xếp đồ đạc, đi tắm rửa rồi tính!
Đến tối, Năm Cam ngạc nhiên khi thấy cả chục người ngồi ngay ngắn
trước một bức tường bị bôi đen. Một người ăn mặc tươm tất có tác phong
đạo mạo hỏi nó:
- Con có biết đọc biết viết không?
- Dạ…không! Nó rụt rè trả lời.
- Vậy thì ngồi xuống đây chú dạy cho… Khổ thân cho con, nếu nước nhà
độc lập thì tuổi tụi con là tuổi ăn học, sao phải tù tôi như vầy…
Oâng ngừng một lúc rồi bắt đầu quay qua giảng giải. Theo trí óc non
nớt lúc bấy giờ của Năm Cam, nó chỉ biết: ông ta nói rất hay và nó cảm
thấy xúc động thực sự.
Và, Năm Cam đã được những người Việt Cộng lúc đó trong cảnh tù đày
dạy cho biết chữ. Nếu không có cơ hội ấy, có lẽ mãi đến sau này, Năm Cam
cũng chẳng biết lấy một chữ bẻ đôi đừng nói chi đến làm được bốn phép
công trừ nhân chia và đọc báo!
Người thầy dạy học ấy, Năm Cam chỉ còn nhớ mài mại là ông Sáu Hoa. Sau này, Năm Cam nhiều lần dò hỏi nhưng chẳng ai biết…
Được hơn sáu tháng sông trong sự đùm bọc của những người tù chính
trị, Năm Cam đã chứng kiến khá nhiều việc nó cho là không thể hiểu nổi,
dù hết sức khâm phục.
Mỗi buổi chiều, bọn an ninh vào tận mỗi phòng để bắt họ phải hô đả
đảo * và đủ loại khẩu hiệu chống lại lý tưởng của chính họ. Mặc cho roi
vọt và đòn thù quật lên những thân xác gầy guộc vì thiếu ăn, họ vẫn ngậm
tăm! Vì sao họ gan dạ như vậy, Năm Cam không thể hiểu nổi nhưng nó hết
sức nể phục, thương mến họ.
Mãi đến sau này, có lần Năm Cam đã tâm sự:
- Nếu lúc đó tôi khôn lớn hơn và có một cơ duyên may mắn hơn để đứng
luôn vào hàng ngũ của họ, cuộc đời của tôi có một kết thúc sáng sủa hơn
nhiều!
*
* *
Kim-một cán bộ hành chánh Nha Cải Huấn ghé ngang nhà BảyXi gọi ông ta ra nói với nét mặt hớn hở:
- Thằng em ông sắp được về rồi… Đang lập danh sách những ai ở được 2 phần 3 mức án sẽ được phóng thích!
Bảy Xi mừng rỡ lập tức chạy xuống hẻm 148 báo cho vợ cũ- chị Tư Xẩm và Trúc, vợ Năm Cam biết. Trúc nghẹn ngào nói với chị Tư:
- Tội nghiệp con bé Lan, sinh ra không thấy mặt cha… Cũng may anh về tới nơi rồi!
Thực vậy, suốt thời gian mang thai đứa con gái đầu lòng đến cận ngày
sinh, Trúc vẫn phải bươn chải với gánh trái cây, vừa nuôi chồng ở tù vừa
cho đứa bé sắp ra đời.
Đó cũng là lý do suốt thời gian sau này, kể cả khi đã có tiền bạc
rủng rỉnh, vợ bé vợ mọn lung tung, Năm Cam vẫn không bao giờ bỏ vợ.
Cận Tết Nguyên Đán, Năm Cam bước ra khỏi cổng Chí Hòa vào một buổi trưa với một mảnh giấy tha tù trên tay.
Năm Cam bước vào một quán hủ tíu mì gọi một tô và một ly cà phê sữa bốc khói để tận hưởng một chút khoái hoạt của Đời.
Nhìn đoàn người lũ lượt cả trăm người bước qua trước mặt, Năm Cam
chợt thấy lòng nôn nao. Những người này khi vừa ra khỏi cổng, thậm chí
không thèm trả giá, trèo lên Taxi, xích lô hoặc bất kỳ phương tiện nào
để về nhà.
Cảm giác tự do làm Năm Cam chợt thấy lòng lâng lâng và muốn hít một hơi đầy *g ngực cho đã…
Bước xuống taxi dừng ngay đầu ngõ Sáu Căn, Năm Cam đi lững thững vào
nha. Một vài người quen trong xóm nhận ra vẫy tay chào, Năm Cam chỉ biết
mỉm cười đáp trả.
Như bất ký cuộc hội ngộ nào, nước mắt-nụ cười và tất cả mừng tủi như òa vỡ khi Trúc thấy chồng bước vào nhà.
Cuộc rong chơi đầu tiên xa nhà của Năm Cam đã kết thúc vào một ngày giáp Tết đầy ý nghĩa.
- Khóc làm gì hoài vậy, lo cho thằng chồng mày ăn uống cái gì đi chứ! Tư Xẩm gắt em dâu trong nụ cười đầy lệ.
Nghe tin, Bảy Xi lập tức xuống tìm thắm Năm Cam trên chiếc Mobylette
vàng. Kéo Năm Cam lên xe chạy ra chợ Xóm Chiếu ghé vào một tiệm cơm, Bảy
Xi ngẩn người nhìn đứa em vợ đã ở tù vì mình.
- Cậu cầm lấy xài tạm, qua Tết tôi sẽ mua cho cậu một chiếc Velo
Solex 2000 chạy với người ta! Bảy Xi vừa nói vừa dúi vào tay Năm Cam một
xấp tiền khoảng 5 ngàn đồng, bằng mấy lần lương tháng của một công
chức….
Khi nghe Năm Cam kể lại, Tư Xẩm nhếch mép cười lạt:
- Lúc này thằng chả giàu rồi, mở sòng me lớn lắm ở trên Đỗ Thành
Nhân… Vậy mà chớ hề lo chút gì cho thằng Thọ, con chả! Con người gì mà
vô trách nhiệm hết sức…
Hai hôm sau, Năm Cam tìm lên sòng me của Bảy Xi chơi.
Tọa lạc trong một con hẻm được mệnh danh là Xóm Cầu Tiêu, sòng me của
Bảy Xi hoạt động khá rôm rả. Nhác thấy mặt Năm Cam, Bảy Xi đã lại dúi
vào tay đứa em vợ có thành tích một xấp tiền kèm theo lời căn dặn:
- Cứ kẹt là cậu lại qua đây, với cậu, tôi không tiếc cái gì!
Nhưng để gọi là món tiền phi pháp đầu tiên trong đời, Năm Cam có được hoàn toàn không dính líu gì đến cờ bạc.
Sát Tết, Sơn lùn gặp Năm Cam. Đây là một nhân vật quái kiệt nơi khu
bến tàu lúc bấy giờ. Cứ mỗi lần đi tù về là Cảnh Sát Cảng lại phải đau
đầu vì tài ăn trộm của Sơn lùn.
- Chú muốn có tiền sài Tết không, theo anh…Sơn nói.
Đêm ấy, theo sự hướng dẫn của Sơn lùn, cả bọn gồm: Nô cao giò, Của cọp, Bảy trắng, Năm Cam… đột nhập kho hàng của Bến Tàu.
Chẳng rõ Sơn lùn có thỏa thuận được với bộ phận bảo vệ kho hàng hay
không Năm Cam chỉ nhớ rằng, việc vào kho hàng cạy tung các kiện để thồn
vào túi vải cơ man nào là thuốc tây, máy radio loại nhỏ… sao đơn giản và
an toàn đến vậy.
Hàng vác về được tập trung ở nhà Năm Cây khu vực chợ Cầu Cống và Sơn
lùn lãnh trách nhiệm đi tìm mối tiêu thụ. Đến sáng, tất cả đã được tống
khứ và Sơn lùn hẹn:
- Bọn Tàu mua hàng hẹn qua Tết mới thanh toán…
- Đâu có được, rồi lấy gì bọn mình xài Tết? Của cọp phản đối.
Lời Của cọp không phải là giỡn chơi. Dẫu sao, ông ta cũng thuộc loại
có máu mặt trong giới anh chị Sài Gòn. Lập tức Sơn lùn lại đi vào Chợ
Lớn.
Đúng chiều 30 Tết, Sơn lùn đưa toàn bộ nhóm tham gia vụ trộm lên nhà
hàng Đồng Khánh để nhận tiền và làm bữa tiệc tất niên tương đối linh
đình.
- Mỗi người nhận trước 30.000 đồng, mùng 2 Tết sẽ nhận nốt phần còn
lạ, gấp 3,4 lần thế này… Sơn lùn hồ hởi tuyên bố. Ngay lập tức Năm Cam
cầm số tiền gặp chị Tư Xẩm để bàn bạc.
Căn nhà 148/31 đã đuợc Năm Cam mua và cũng là căn nhà y làm chủ bằng đồng tiền do chính bản thân kiếm được, dù là tiền ăn trộm!
Rong chơi với tiền do Bảy Xi cung cấp suốt ngày mùng một, đến hẹn,
Năm Cam cùng đồng bọn đi tìm Sơn lùn để hỏi tiền. Hỡi ôi, ông vua trộm
bến Tàu đã ôm trọn số tiền còn lại, dĩ nhiên là rất lớn, biến mất không
một lời từ biệt!
Cả bọn ráng chờ đợi và tự an ủi nhau bằng cách cho rằng Sơn lùn đang có công chuyện gì đó, dù chẳng ai tin vào điều đó.
Năm Cây- người được Sơn lùn tin tưởng gới lô hàng trước khi giải toả,
hóa ra cũng có chút tham lam như bất kỳ ai. Oâng và vợ rút bớt một số
hàng trong để ngấm ngần đi tìm mối bán.
Khổ nổi, sau vụ án lớn như vậy, cảnh sát cho người đi điều tra khắp nơi và tìm ra số hàng bị mất khi Năm Cây đi bán.
Lập tức Năm Cây bị bắt giữ và lần lượt Nô cao giò, Bảy trắng, Của cọp bị thộp ngay tại nhà.
Năm Cam thoát cũng nhờ vào Bảy Xi. Mối quan hệ cảnh sát do mở sòng me
đã giúp cho Bảy Xi được thông báo về vụ trộm có liên quan đến em vợ.
Một số tiền lót tay được tung ra kịp lúc và đúng người, cộng thêm Năm
Cam không nằm trong danh sách những tên trộm chuyên nghiệp nên Bảy Xi
dễ dàng cứu được y một khoá tù dài đằng đẳng.
- Cậu cần gì cứ qua anh, việc gì phải dây vào ba cái vụ trộm cắp mang
tiếng mà lỡ có gì tội cho vợ con! Bảy Xi vỗ vai em vợ khuyên
Thế là, sau phi vụ đầu đời, Năm Cam rút ra được một bài học quí báu
để suốt cuộc đới còn lại, y không bao giờ lao vào cách những kiếm tiền
theo kiễu lưu manh cấp thấp.
*
* *
Đang ngồi cạnh Tám Lâu ở sòng bạc khu Da heo, Năm Cam chợt thấy từ xa một chiếc Goebel phóng lại.
Tám Lâu nhận ra người ngồi sau xe do Hiếu mặt mâm cầm lái là Đại
Cathay nên nở nụ cười xã giao. Thay vì chào đáp lễ- vì dẫu sao Tám Lâu
cũng xuất thân giang hồ trước mình và có mối quan hệ anh em giang hồ,
Đại Cathay vẫn giữ bộ mặt lạnh như tiền.
- Cho tôi mượn bộ bài! Đại Cathay nói với một con bạc.
Dĩ nhiên người này ríu ríu nghe theo.
Cầm bộ bài trên tay, Đại Cathay thuận tay xé nát. Từng lá bài rơi lả
tả trên nền gạch. Khoé miệng tay anh chị số 1 Sài Gòn trễ xuống khinh
mạn.
Cho đến khi Đại Cathay chuẩn bị quay đi, Tám lâu mới nói giọng rưng rưng:
- Đại à, tao với mày là anh em sao mày nỡ cư xử như vậy?
- Anh hỏi lại anh đó, tôi ở tù anh nuôi tôi mà nói mắc nói mỏ, tôi làm sao trọng anh được! Đại Cathay trả lời một cách xấc xược.
- Thôi được rồi, nếu mày nghe lời người ta để hôm nay đối xử với tao
như vậy, tao sẽ nghĩ… Từ mai tao mướn xích lô đạp sống qua ngày…
Đại Cathay hừ giọng mũi rồi ra xe vọt đi.
Khi mọi người đã bỏ đi, Năm Cam hỏi, Tám lâu mới giải thích:
- Hồi thằng Đại ở tù, mỗi tuần thăm nuôi đều có em út đến đây lấy
tiền tao gởi. Có lần thằng em nó đến sớm, trước kỳ mấy ngày, tao trách,
vì sợ tụi nó lấy cớ để đem tiền để xài riêng… Có vậy mà tụi nó vô thăm,
nói với thằng Đại, nó giận bảo tụi em út khỏi đến lấy tiền, và cuối cùng
hôm nay, như chú mày thấy… Ngừng lại một lúc, Tám lâu nói tiếp:
- Lẽ ra, nó phải về gặp tao hỏi cho rõ đầu đuôi, chưa gì đã xử tệ với tao rồi…
Lại một bài học nữa cho Năm Cam để sau này, làm bất kỳ việc gì, y
cũng cân nhắc rất kỹ, điều tra rõ ngọn ngành trước khi phát lệnh hành
động. Đó cũng là lý do giải thích vì sao Năm Cam hoạt động rất táo bạo
nhưng cũng rất tinh vi đến độ, khó có một sai sót nào!
*
* *
“ Năm Cam về gấp anh Bảy gặp!” Một tay chân thân tín của Bảy Xi hộc tốc qua tìm Năm Cam thông báo.
Bước vào sòng me của Bảy Xi, Năm Cam đã thấy có hàng loạt gương mặt dữ dằn nhứt của giới giang hồ –trong đó có Đại Cathay.
- Chú Đại nói anh kêu em về… Bảy Xi chậm rãi nói.
- Có chuyện gì vậy anh Đại? Năm Cam hỏi không tránh khỏi hồi hộp.
- Anh có bàn với anh Bảy rồi, bây giờ hỏi ý Năm Cam xem chú có bằng
lòng giữ tiền phân phát chợ búa hằng ngày cho anh em không? Đại Cathay
nói với nét mặt không chút biểu cảm nào.
Năm Cam một thoáng chút do dự. Về vai vế giang hồ,Năm Cam còn kém cả
hàng đàn em cấp thấp của Đại Cathay, việc giữ tiền sòng quả vượt ngoài
khả năng của y. trước kia mọi chuyện tiền bạc ở sòng me này, Đại Cathay
giao cho Sáng. Đây là người hết sức được anh Đại tin tưởng nhưng cũng
chính anh ta hai lần bạo phổi lấy tiền xâu của cả sòng đi đánh bạc và vì
vậy, đã biến mất!
- Dạ em chỉ sợ em làm không được việc rồi mấy anh buồn! Năm Cam lí nhí trả lời.
- Có gì mà không được, ở đây còn có anh Bảy Xi mà…Đại xua tay.
Thế là từ hôm ấy, Năm Cam được nâng cấp trong hàng ngũ anh chị giang hồ bởi công việc tay hòm chìa khoá cho anh Đại.
Hằng ngày, Năm Cam nắm lấy tiền xâu để phấn phát theo danh sách anh Đại cung cấp.
Đứng đầu danh sách để nhận mỗi ngày 2000 đồng tiêu vặt gồm: Huỳnh Tỳ, Ba Thế, Hiếu mặt mâm, và trung sĩ Báo Quân Cảnh.
Tiếp đến là một loạt đàn em khác nhận ít hơn tuỳ theo đẳng cấp giang
hồ của chúng. Số tiền trồi sụt trong khoảng 1000 đồng đến 200 đồng…
Tiền chợ búa, thuốc phiện được chi trọn gói là 10000 đồng.
Trong quảng thời gian này, Năm Cam đã tích luỹ được toàn bộ phương pháp tổ chức một sòng bạc có qui mô và cách chi tiêu của nó.
Đại Cathay lúc này không ghé sòng thường xuyên mà suốt ngày rong ruổi
trên chiếc Ford Falcon mới cáu cạnh để đến tất cả các sòng bạc khác để
thu tiền hụi chết.
Ngay cả chiếc Ford Falcon sáu máy trị giá 600.000 đồng của Đại Cathay
cũng do các chủ sòng gồm: Ba Mạnh- Xí dành, Bảy Cao hùn nhau mua cho.
Tài xế là Tư Gáo, vốn là đệ tử của thiếu tướng Trần Tử Oai, do khoái đi
chơi với giang hồ hơn là làm người nhà cho ông lớn,tình nguyện về lái xe
cho Đại Cathay! Dĩ nhiên Tư Gáo phải bỏ luôn ông thầy tướng lĩnh dù
điều này sẽ làm anh ta chịu không ít thiệt thòi!
Do công việc giữ tiền sòng cho Đại Cathay, tuy không tham gia những
cuộc chinh phạt của Đại Cathay nhằm mục đích thâu tóm toàn bộ địa bàn
Sài Gòn về một mối, nhưng Năm Cam cũng biết được khá tường tận và cũng
gieo vào đầu y tư tưởng bá chủ giang hồ.
Đại Cathay có vợ là chị Tân, con gái rượu của hãng đồ gỗ Đông Nhan,
vừa có học vừa đẹp một cách mặn mà. Bên cạnh đó, Đại Cathay còn cặp bồ
với Kim Ó, một gái deluxe của động Bảy Măng có sắc đẹp hiếm có trong
giới bán phấn buôn hương ở Sài Gòn.
Năm Cam vốn là người đa tình, hiếu sắc, nhìn thấy Đại Cathay với
những quyền lợi có thể thấy rõ là gái đẹp, tiền bạc và sự cung phụng của
mọi người xung quanh, Năm Cam cảm thấy thèm muốn một địa vị giang hồ
tầm cở như Đại Cathay.
Vào thời điểm này Lâm chín ngón bỏ băng Đại Cathay đi và bị bắt bởi
tội danh cướp. Nguyên nhân hết sức kỳ cục mà Năm Cam nguyện trong lòng
sẽ không bao giờ mắc phải sai lầm tương tự như Đại Cathay.
Lâm chín ngón và Phong khùng, em ruột cùng mẹ khác cha của Đại, rủ
nhau lấy chiếc Lambretta mới toanh của Đại đi chơi. Chẳng hiểu quờ qụang
thế nào,cả hai *ng vào xe taxi móp hết một tấm chắn. Hoảng hồn dù đã
khuya, cả hai đem tấm chắn đến một tiệm sơn sửa để cấp tốc phục hồi
nguyên trạng. Rủi thay, đến sáng Đại Cathay có công việc cần đến xe.
Phát hiện sự việc, Đại Cathay gọi Lâm 9 ngón và Phong khùng vào nện cho
mỗi tên mấy bạt tai. Uất ức vì bị xử như một tên đàn em cắc ké, Lâm bỏ
đi…
Nhìn thật rõ cách cư xử của Đại Cathay, Năm Cam thầm nghĩ: nếu ở
cương vị của Đại Cathay, Năm Cam sẽ có cách xử sự khácvà sẽ có cách để
buộc chân đàn em phải hết lóng vì mình. Tóm lại, sự sai sót của Đại
Cathay đã dạy cho Năm Cam nhiều điều hơn bất kỳ ai.
Cuộc sống quẩn quanh bên những sòng bạc với các trò vui trác táng đã
cho Năm Cam nhận ra không gì kiếm tiền nhanh chóng và an toàn hơn tổ
chức cờ bạc miễn là đồng tiền có được phải biết rãi đường để tạo ra một
thế đứng tạm gọi là hợp pháp.
Đại uý Chi, người chịu trách nhiệm bài trừ du đãng và tệ nạn xã hội,
đã gần như “ tay trong” của Đại Cathay và giới anh chị Sài Gòn.
Tất cả những động tịnh gì củaTổng Nha Cảnh Sát và Nha Đô Thành đều được thông báo kịp thời cho Đại Cathay.
Aáy vậy mà Đại Cathay cũng không thoát khỏi việc sa lưới.
Một ngày đẹp trời, tướng Cảnh Sát Nguyễn Ngọc Loan cho người tìm Đại
Cathay để ra điều kiện : hoặc cộng tác với Cảnh Sát để ổn định trật tự
trị an bằng cách chỉ điểm bắt những tay anh chị có máu mặt, có thành
tích, hoặc, bị bắt!
Đại Cathay đã từ chối và văng tục vào lời đề nghị của tướng Loan.
Đêm ấy, theo lệnh đại uý Chi, hàng loạt vụ bắt bớ diễn ra trên toàn bộ địa bàn Sàigòn.
Hầu hết những tay giang hồ có tên tuổi đều sa lưới, trong đó cả Đại Cathay và Bảy Xi.
Do nhiệm vụ giữ tiền bạc của Năm Cam chỉ mới được Đại Cathay giao phó trong một thời gian ngắn nên y tạm thời nằm ngoài tâm bão.
Thế nhưng với trực giác của một tay cờ bạc, Năm Cam hiểu ra mình phải làm gì!
Y vọt lên vùng Gia Định ngay lập tức và xin vào ngành… Cảnh Sát. Tất
nhiên, thời điểm ấy, muốn vào Cảnh Sát không thể thiếu điều kiện tiến
quyết là tiền!
Rủi thay, khi mọi chuyện tưởng đã ổn, lý lịch tư pháp của Năm Cam với
một lần tù do giết người đã làm tiêu tan hy vọng vào nghành Cảnh Sát
của y.
Suy đi tính lại, y tìm một con đường khả dĩ khác.
Lý Văn Chung, một lực sĩ bơi lội của quân đội, hiện là trung sĩ quân
vận đã nhận lời giúp Năm Cam. Thế là, năm 1967- Năm Cam trở thành một
người lính quân vận với một số tiền lót tay không nhỏ.
Để hợp thức hoá việc ở lại Sài Gòn, Năm Cam được đưa vào toán vận
động viên bơi lội của cục quân vận với tay bơi lội số một miền Nam thời
bấy giờ là Phan Hữu Dõng.
Cũng thời gian này Đại Cathay chết.
Rất nhiều năm sau này, rất nhiều người kể lại và thậm chí có cả một
số tờ báo đăng tải về cái chết của ông lớn giang hồ Đại Cathay, Năm Cam
chỉ cười khì… Năm Cam biết khá rõ về trường hợp chết của Đại Cathay và
Hải Sún vì một lý do: Ba gà, người đi cùng Đại Cathay trong chuyến vượt
ngục bi thảm từ trại Cửu Sừng-Phú Quốc, để tìm Năm Cam để chỉ nhà dì
Sáu, mẹ của Đại, hầu thông báo tin tức của con trai bà.
“ Một loạt du * có thành tích như: Đại Cathay, Bảy Xi, Hải Sún, Ba
gà, Tám lâu, Đực bà Tiều, Tín mã làm, Xu bả Sứng, Hổi Phoòng Kim…vv… bị
đưa ra đảo giam ở trại Cửu Sừng đảo Phú Quốc. Riêng Bảy Diệm cũng bị bắt
giữ, nhờ lo lót hết hai chục triệu đồng-một số tiền lớn kinh khủng cho
Trang Sĩ Tấn giám đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành mới được tha.
Tất cả đều tin là sẽ chết rũ xương nơi đảo vắng. Bà Bảy Quăn, mạnh
thường quân của Đại Cathay, chuyên nghề cho vay ở các sòng bạc nhận ra
nếu thiếu Đại, công việc làm ăn của bà khó bề suông sẻ,bà móc nối với
một trung uý hải quân tên Nghĩa để giải thoát cho Đại Cathay.Và-chiếc áo
khoác dấu đầy vàng lá của Tân-vợ Đại cathay mang ra cho chồng cũng lấy
từ hầu bao của bà ta.
Chuyến tàu tuần duyên liều mạng bỏ neo ngoài khơi Phú Quốc. Trên đảo
cũng bằng biện pháp mua chuộc, Đại Cathay, Ba gà và Hải Sún được ca nô
đưa ra tàu để trực chỉ đất liền.
Thả bọn vượt ngục xuống một bờ biển hoang vắng thuộc tỉnh Rạch Giá,
trung uý Nghĩa coi như hoàn thành sứ mệnh liền cho tàu ra khơi.
Quân giải phóng đã chờ sẵn từ lúc chiếc tàu xuất hiện trong vùng biển do họ kiểm soát liền ập ra bắt cả bọn.
Đại Cathay liền giải thích trường hợp có mặt của họ nơi hoang vắng
này. “ Để chúng tôi liên lạc về Sài Gòn, đúng thì sẽ thả mấy anh, nếu
không, đừng trách!”. Vị chỉ huy đơn vị du kích nói.
Trong lúc đợi xác minh, cả bọn tù vượt ngục được canh giữ cẩn thận và
tất nhiên, họ phải lội xuống ruộng để tham gia việc đồng áng hệt những
kẻ canh giữ họ.
Vốn lười nhác, Đại Cathay kêu trời như bọng.
Một đêm nọ, Ba gà được đánh thức giấc nhìn qua bên cạnh. Đại Cathay
và Hải Sún đã biến mất đâu. Chợt một loạt đạn nổ dòn dã dưới chân núi.
Đến sáng, Ba gà được đánh thức dậy và đưa đi theo các du kích.Họ nhìn Ba Gà bằng vẻ mặt đầy nghiêm trọng.
Dưới chân núi, ngay sát con đường mòn là xác của Đại Cathay, Hải Sún.
“ Anh đào lỗ chôn họ đi!” Một du kích ra lệnh.
Mãi sau này có người giải thích: “Đại Cathay luồn xuống núi, vượt qua
được trạm gác của du kích nhưng lại rơi vào ổ phục kích của một toán
thám báo nào đó chết oan mạng!”.Có nguồn tin cho rằng toán biệt kích ấy
là do Nguyễn Ngọc loan phái đi để tìm cách triệt tiêu Đại.Thực ra như
thế họ đã quá quan trọng hóa cái chết của một tên du đãng với Tám
Lèo(biệt danh của tướng Loan).Trong khi đó,quyền lực thực sự của phe
nhóm Nguyễn Cao Kỳ đều nằm cả trong tay ông ta,việc gì phải làm vậy cho
nhọc xác,mệt trí?Có lẽ,việc huyền thoại hóa cái chết của Đại chỉ có giá
trị cho các dân làng bẹp muốn đánh vào trí tò mò của bạn bè nhằm kiếm
chút sái cầm cơn thì đúng hơn.
Ba gà đem tin dữ về sau khi được phóng thích nhằm mục đích cho mẹ Đại biết ngày mà cúng quảy cho con trai mình.
Trớ trêu sao, chỉ sau 6 tháng giam dữ trên đảo Phú Quốc, tất cả được trả tự do. Đực bà Tiều về sau cùng cũng không quá 8 tháng.
*
* *
Bảy Xi ngay lập tức quay trở về với nghề cũ: mở sòng bạc. Người đầu
tiên Bảy Xi cho liên lạc để gọi về là Năm Cam. Với Tư Xẩm, Bảy Xi đã
đoạn tuyệt từ lâu- nhưng riêng đứa em vợ, không có là không xong. Sòng
bạc không thể cố định ở mãi một điểm như trước đây, phải liên tục di
chuyển, dù chỉ trong phạm vi quận 4. Về mặt cư xử với bằng hữu giang hồ,
Bảy Xi vụng về và kém xa Năm Cam, chính vì vậy-để có thể tồn tại không
sợ sự quậy phá của các nhóm giang hồ khác, Bảy Xi cần đến sự trợ lúc của
Năn Cam.
Tuy nhiên, lúc này Năm Cam có một thu nhập nhỏ nhưng ổn định nên Bảy Xi hơi khó lòng chiêu dụ.
Năm Cam đã được Tư Đen giao phó một sòng bạc nho nhỏ nhưng hoạt động khá rộn rịp.
Để có được quyền “ nắm-sòng”, Năm Cam đã phải bỏ ra một chút bản lĩnh
và cũng nhờ sòng bạc của Tư đen, y đã có thêm một mảnh tình vắt vai….
Từ khi ở tù trở về, Năm Cam vẫn thường lui tới hẻm 122 Tôn Đản để
thăm hỏi gia đình Lót, kẻ bị y đâm chết năm nào. Anh chị ở hẻm này không
thiếu nhưng đều có phần vị nể gã du * mới lớn nhưng đã mang bản án giết
người này.
Sòng bạc Tư đen có từ đời nảo đời nào và gần như chưa ai dám đứng ra
gọi là “ coi sòng”. Ơû hẻm 122, nổi bậc có tay anh chị lớn tuổi hơn Năm
Cam và cũng có khá nhiều thành tích là Tư bánh bò. Năm Cam phải gọi Tư
bánh bò bằng anh vì tên anh chị này ngang lứa với Bảy Xi.
Một buổi đẹp trời, Tư bánh bò chạy xe vào hẻm quẹt vào một đứa nhỏ.
Có lẽ đang say, y xách tai đứa nhỏ chửi bới om tỏi- ghét y, dân trong
hẻm chỉ biết xầm xì to nhỏ. Vô phúc làm sao một câu nói đầu vẻ khiêu
khích lọt vào tai Tư bánh bò: “ Chỉ giỏi quậy trong xóm, ngon *ng tụi
hẻm 148 kìa?”. Nổi cơn thịnh nộ, Tư bánh bò phanh ngực hét: “ Mẹ, tụi
148 là cái gì, kể cả anh em thằng Năm Cam cũng chưa dám đứng trước mặt
tao mà làm trời…”. Dĩ nhiên, chỉ chờ có vậy- một ai đó có ý đồ bèn đem
câu nói tai hại ấy nói lại cho Năm Cam nghe.
Tuổi trẻ ngông cuồng, ngay lập tức Năm Cam đi cùng vài người bạn kéo
xuống hẻm 122. Gặp Tư bánh bò đang ngồi nhậu đầu hẻm, Năm Cam tiến đến
trứơc mặt Tư bánh bò, hỏi:
- Tôi với anh chưa hề mích lòng, sao anh Tư nói xốc tui?
Ngẩn người ra nhìn gã đàn em láo xược, Tư bánh bò gằn giọng:
- Rồi bây giờ mày lên muốn bắt lỗi tao hả?
“ Rôốp” Năm Cam chụp chai bia trên bàn nện luôn vào đầu Tư bánh bò.
Bất ngờ, Tư bánh bò lảo đảo chưa gục hẳn đã bị nên thêm một chục chiếc
ghế vào lưng…
Hôm sau, Tư bánh bò đến tìm Bảy Xi với chiếc đầu quấn băng trắng toát…y vừa nói vừa rưng rưng nước mắt:
- Tao đâu có ngờ, anh em với nhau mà thằng Năm xử nặng tay quá!
Từ dạo đó, giang hồ không còn ai còn nghe đến tên tuổi Tư bánh bò và y cũng dọn nhà đi đâu mất biệt…
Tất cả những vụ *ng độ ấy, chỉ để tạo nên một chút tiếng tăm và việc đánh Tư bánh bò đã được hai người cần thiết, nhìn thấy!
Tư đen lập tức gọi Năm Cam đến để giao sòng bạc.
Mai, một cô gái xinh đẹp còn đang cắp sách đến trường, ở tại hẻm 122,
đã thấy lòng có một chút xao xuyến trước một tay anh chị trẻ tuổi đầy
hào khí.
Về sau này, khi Năm Cam đã thực sự là một Năm Cam đầy quyền lực trên chốn giang hồ, y vẫn tự nhận xét về mình:
- Ở đời chẳng có ai gọi là hoàn hảo, như anh-tụi bây thấy đó,ít khi
mắc phải những sai lầm nhưng cũng có chút nhược điểm, đó là ham sắc… Có
điều, tạo ra được thì phải hưởng chớ! Miễn là đừng nghe lời đàn bà làm
hư chuyện lớn, anh hùng thường chết bới mỹ nhân mà! Nếu anh có chết,
cũng có thể sau này là do đàn bà…
Riêng nhận xét này, cuối cùng Năm Cam đã lầm!
*
* *
Dù đang có hai con nhỏ và một đứa con khác đang còn nằm trong bụng
mẹ, Năm Cam đã không bỏ qua cơ hội tán tỉnh người đẹp hẻm 122.
Mai là con gái của đại uý Chùa, một nhân vật nổi danh của Thuỷ quân
lục chiến. Mặc cho bố người đẹp là ai, Năm Cam vẫn kiên trì và cuối
cùng. Mai cũng đã ngã vào vòng tay y. Ít lâu sau, cô gái có bầu và dù đã
có thu nhập ở sòng Tư đen, Năm Cam vẫn không sao gánh vác nổi một lượt
hai gia đình. Để có thể cấp dưỡng cho vợ lớn, vợ nhỏ, Năm Cam đành tìm
về “ anh Bảy” đang bắn tiếng chào mời.
Sài Gòn vào cuối năm 1967-1968, phồn thịnh chưa từng thấy với hàng
viện trợ quân sự của Mỹ, với bộ máy tham nhũng từ trên xuống dưới, đã
tạonên một tầng lớp giàu xổi. No cơm rửng mỡ, loại người này lao vào ăn
chơi trác táng, tất nhiên trong các thú vui ấy, không thể thiếu cờ bạc.
Hai sòng bạc tổ chức hết sức qui mô như một Macao thu nhỏ với đầy đủ
trò chơi, thuộc về ông Tám Phánh-chủ khách sạn Kim Thành và ông Bảy
Diệu-khu cây da xà.
Sòng của Bảy Xi, đối với những sòng qui mô ấy, chỉ là cò con. Thế
nhưng, do tính chất bình dân của nó, sòng Bảy Xi hoạt động hết sức rôm
rả.
Cùng thời gian về làm tay chân cho Bảy Xi, Năm Cam đã giúp được cho một người bạn thân khá thân thuở thiếu thời là Sáu Nhà.
Sáu Nhà vốn là một tay đứng máy in lành nghề cho một số tờ nhật báo
xuất bản tại Sài Gòn, nay đang đứng trước nguy cơ bị bắt quân dịch.
Năm Cam sực nhớ ra mối giao tình với tay thiếu uý quân mới ra trường
là Nguyễn Văn Thân. Y tìm gặp bộc bạch việc của Sáu Nhà. May mắn làm
sao. Thân quen với Cò Sắc-thế là, Sáu Nhà được đưa vào ngành cảnh sát
không tốn lấy một xu teng!
- Cậu muốn về quận nào? Cò Sắc hỏi Sáu Nhà trong ngày tốt nghiệp.
- Dạ, cháu chỉ muốn…gác cầu! Sáu Nhà trả lời.
Sẽ rất nhiều người thắc mắc tại sao Sáu Nhà không xin về những quận
có thu nhập cao như quận 5, quận 1. Điều dễ hiểu, Sáu Nhà chỉ muốn có
thời giờ rảnh rổi để đi làm công việc in ấn của mình!
Ít lâu sau khi Sáu Nhà trở thành tên cảnh sát gác cầu Khánh Hội, sòng bạc Bảy Xi xảy ra *ng độ.
Đực bà Tiều, sau khi ở đảo Phú Quốc về, cũng lao vào tổ chức sòng bạc
tại khu Chợ Cá- Cầu Ông Lãnh. Tay chơi bạc ở sòng, đa số là các chủ vựa
cá nên sau một thời gian chơi ở các sòng Đưc bà Tiều cũng đã “ nhảy dù”
qua sòng Bảy Xi để thử thời vận.
Tất nhiên khi biết chuyện, Đực bà Tiều tỏ ra cay cú. Y theo dõi và
một buổi trưa, khi thấy một vài tay em qua sòng Bảy Xi, y bèn lấy Vespa
qua sòng Bảy Xi.
Chẳng cần phải thuyết phục nhiều, vừa thấy mặt hung thần khu Chợ Cá,
các tay chơi vốn dĩ là dân làm ăn, vội ríu ríu lên xe cho anh Đực trở về
sòng của “ anh Đực” chơi giúp đỡ!
- Chuyện làm ăn không ai *ng chạm ai, thằng Đực chơi kiểu này là không được rồi! Bảy Xi than thở với đứa em vợ.
Suy nghĩ một lúc, Năm Cam nói:
- Thôi, chuyện anh Đực để tui tính cho… Có gì ông lo giùm vợ con tui!
Sau đó Năm Cam tìm gặp Sáu Nhà. Chẳng biết bàn bạc gì ngay hôm sau đã xảy ra chuyện.
Quen mửng cũ, Đực bà Tiều lấy Vespa qua sòng Bảy Xi. Vừa quẹo vào đầu ngõ, Đực bị chém luôn mấy dao vào tay,vai và lưng!
Bất ngờ, Đực bà Tiều bỏ chạy, chiếc Vespa nằm chỏng chơ giữa hẻm.
Chạy được một đoạn, chừng như mắc cở, Đực chụp lấy một thanh gỗ xây dựng
ở căn nhà ven đường quay lại ứng chiến với Năm Cam.
Nhưng nhác thấy Năm Cam vung vẩy trên tay khẩu ruleau cảnh sát, Đực
vứt luôn cây gậy bỏ chạy. Năm Cam đuổi theo vài bước rồi đứng lại, cười
gằn:
- Tưởng sao, hóa ra cũng biết sợ súng!
Chẳng biết về nói lại thế nào, lát sau Năm Cam nhìn thấy Huỳnh Tỳ đi qua trên chiếc hoda dame do một đàn em chở.
- Chú đừng hiểu lầm, Đực bà Tiều nhờ anh qua lấy dùm xe về thôi Huỳnh Tỳ lật đật giải thích trước ánh mắt nghi ngờ của Năm Cam.
- Xe của Đực ba Tiều anh cứ lấy về, còn nếu anh muốn binh chả tui cũng ráng chờ! Năm Cam nói.
Có lẽ nhìn thấy khó có cơ hội trả đũa, Đực bà Tiều im luôn. Sau sự
việc Năm Cam trở thành một nhân vật được cưng chiều số một ở sòng Bảy Xi
và tạo dựng được đôi chút tên tuổi.
* Sau khi Lót chết, uy danh của Bảy Xi cũng tăng lên rất nhiều, nhưng
theo qui luật giang hồ thời bấy giờ lấy nghĩa khí làm trọng, Bảy Xi
phải dành một phần lợi tứccủa mình trợ cấp cho vợ con của Lót vẫn còn
sống trên hẻm 122 Tôn Đản.
Về sau, Vỉ- đứa con trai lớn của Lót vẫn thọ lãnh ơn nghĩa ban phát
từ Năm Cam, kẻ giết cha mình mà không hề có chút áy náy. Gã là vậy,
không thể được coi là một người ân oán phân minh nên vĩnh viên vẫn được
liệt vào loại âm binh mắt ma, mạt hạng nhứt của giang hồ. Vân, đứa con
gái của Lót cũng vậy, đã đi theo Năm Cam gởi cho Thành đôla- một chiến
hữu của y để nâng đỡ. Nâng đỡ thế nào không biết, Vân biến thành vợ bé
của lão già Thành đôla một thời gian không ngắn. Chương thỏ, đứa con
trai kế của Lót, đã kế tục sự nghiệp của cha để trở thành anh chị cộm
cán nhứt của hẻm 122. Gã thành danh nhờ hàng loạt vụ đâm chém với các
hẻm cùng khu vực hệt cha gã ngày nào…
Với gã, mối thù giết cha không phải dễ quên, nhưng khi gã đã lớn khôn
để nghĩ đến việc đòi lại nợ máu, Năm Cam đã trở thành một ông trùm tuy
chưa đến độ ghê gớm như sau này, nhưng đủ để Chương thỏ không thể nào
làm bất cứ điều gì mà không trả giá đắt…
Trong cuộc đời Năm Cam, tuy là một tay trùm cờ bạc nhưng y rất ghét
cái gọi là “ giới kỳ bẽo” tức là dân cờ bạc bịp. Một cuộc đấu gần như
tay đôi giữa 2 “ thần bài” ở Hồng Kông và Sài Gòn lúc bấy giờ, đã dạy
cho Năm Cam hiểu: trong nghề đánh lận ,người giỏi có người giỏi hơn,
chính vì vậy, y không học những ngón nghề cao siêu của giới bạc bịp vì
sợ có ngày trắng tay sạch túi.
Chuối, một tay tổ cờ bạc bịp của giới anh chị Hồng Kông đã đến Sài
Gòn theo lời mời của giới lão bản Chợ Lớn. Y đã lột sạch sẽ những con
mồi từ khờ khạo tinh quái ở khắp các sòng lớn nhỏ.
Nghe tin, Bảy Huê Kỳ- số 1 ở Sài Gòn về ngón nghề kỳ bẽo đã âm thâm
nghiên cứu đối phương. Phải biết Bảy Huê Kỳ là truyền nhân của Chín
chuyền- một kỳ bẽo già nua thời Bình Xuyên còn sót lại. Bảy Huê Kỳ là sư
phụ của Thảo Ma, Sáu lùn và Hiếu Phú Nhuận. Nói vậy có thể hình dung ra
đẳng cấp của Bảy Huê Kỳ.
Bảy Huê Kỳ, một ngày đẹp trời- đã tìm đến sòng bài ở sòng Tự
Đức-Nguyển Văn Thủ bấy giờ, là sòng do Mai Hữu Xuân tổ chức để đối đầu
với Chuối…
Chuối không hề biết Bảy Huê Kỳ nên y cứ tha hồ trở ngón nghề của mình để lột dần những tay sộp bằng bài cào.
Đánh một lúc cầm chừng, Bảy Huê Kỳ sử dụng một thủ pháp điêu luyện
của bao nhiêu năm lăn lộn trên các xới bạc để “nhốt” ba con tây vào tay
áo veston. Sau đó, Bảy Huê Kỳ “cụp”- tứclà dốc túi đánh sạch số tiền có
được xuống chiếu.
Thấy ngon ăn, Chuối lập tức lùa ba lá bài cộng thành 9 nút xuống đáy
bộ bài. Bảy Huê Kỳ nhìn thấy hết nhưng vờ như gà mờ! Chuối bắt đầu chia
bài theo lối “ chia hạ” một cách hết sức tinh vi để lấy được tụ bài 9
nút.
Nhanh như một ảo thuật gia quoấc tế, ba lá bài của Bảy Huê Kỳ được
cầm lên chui tuột vào tay áo veston, ba lá bài nhốt sẵn lập tức xuất
hiện trên tay ông ta.
Chẳng cần phải nặn nọt gì, Bảy Huê Kỳ vớt ba lá tây ra chiếu với nụ cười khó hiểu:
- Ba cào! Ăn được thì ăn …
Chuối tái mặt nhìn sững vào đối thủ một lúc rồi không cần nhìn bài của mình, y úp luôn bộ bài, chấp nhận thua!
Ngay lập tức, Bảy Huê Kỳ cầm lấy bộ bài xóc luôn mấy cái, ba lá bài
nhốt trong tay áo khéo léo chui ra hòa nhập với những con bài còn lại.
- Sao, nữa chớ? Bảy Huê Kỳ hỏi.
Biết gặp cao thủ Chuối lẳng lặng lắc đầu.
Sau đó, Chuối dò hỏi và tìm đến nhà để gặp riêng Bảy Huê Kỳ coi như thừa nhận so với ông ta, mình chỉ đáng là học trò.
Thói trăng hoa đèo bồng đã làm cho Năm Cam để ý đến một thiếu phụ có
nhan sắc mặn mà vừa thôi chồng thường đến sòng bạc của Bảy Xi để cho vay
và cầm đồ, tiếng lóng của giới cờ bạc gọi là Hàng Xáo! Thế nhưng cơ hội
để cưa đổ người đẹp đã không đến vào thời điểm ấy vì, Lành-tên người
đẹp, vẫn chưa đoái hoài gì tới y…
Trái lại, một cô bé hàng xóm mới dọn về ở hẻm 148, lại rơi vào tầm
ngắm của Năm Cam và bắt nhân tình với y khi trước 16 tuổi đầu. Đó là Kim
Anh-con riêng của bà Chín Mẹo, người được giới giang hồ sau này gọi là
vợ bé của Năm Cam.
Kim Anh thường đến nhà Trúc chơi và xem Trúc như chị của mình. Do
tính tình ham chơi lêu lỏng, Kim Anh đi nhảy đầm và cặp bồ linh tinh từ
lúc còn trẻ ranh.
Có những đêm, đi chơi về khuya- Kim Anh ghé vào nhà Trúc để ngủ lại.
Và thật là bật thường khi Kim Anh ngủ cùng giường với hai vợ chồng Năm
Cam với sự mặc nhiên chấp nhận của Trúc.
Nhan sắc của một cô gái trẻ có dòng máu lai Pháp đã làm Năm Cam không khỏi xao xuyến.
Một đêm, sau khi nghe tiếng thở đều của vợ chứng tỏ đã chìm vào giấc
ngủ say, con lợn lòng nổi lên. Năm Cam nhổm người lên nhìn qua Kim Anh. Y
chợt nghe rạo rực khi nhìn thấy sắc vóc đương độ dậy thì của cô gái.
Năm Cam đánh bạo thò tay qua vợ mình sờ vào tấm thân ngà ngọc của Kim
Anh. Cô gái vẫn ngủ say…
Cầm lòng không đậu, Năm Cam leo xuống giường rón rén bước vòng qua
phía Kim Anh đang ngủ. Y bắt đầu thám hiểm và thích thú khi nhận ra,
dường như cô gái đã thức như vờ nhắm mắt.
Năm Cam liều lĩnh ghé môi hôn ,Kim Anh chợt mở mắt ra nhìn và thoáng nở một nụ cười trên môi…
Với tình cảnh nguy hiểm, Năm Cam chỉ dám đến thế chứ đâu dám tiến xa hơn.
Từ sau đêm đó,thỉnh thoảng Năm Cam lại tìm cách lén lút hôn hít, sờ soạng cô gái- dĩ nhiên với sự đồng tình của cô ta.
Kéo dài được vài tuần, Năm Cam hỏi riêng Kim Anh:
- Một bữa nào đó, cưng đi chơi với anh nghen?
Câu trả lời làm Năm Cam mừng húm:
- Tuỳ anh sắp xếp hà, có điều em sợ chị Trúc biết…
- Biết sao được, ăn thua hai đứa mình chớ!
Và rồi Kim Anh đã thở thành nhân tình của ông hàng xóm từ lúc cô gái mới bước vào tuổi 16!
Quen hơi bén mùi, cặp tình nhân tha hồ hoan lạc bất kỳ lúc nào có cơ
hội. Những lúc chỉ đợi Trúc đi chợ hoặc rời nhà công chuyện, Năm Cam lôi
tuột Kim Anh vào buồng ngủ của hai vợ chồng để ân ái.
Đi đêm có ngày gặp ma, một buổi sáng-khi vừa xong xuôi, cả hai mới
kịp mặc lại quần áo còn để lại dấu tích trên chiếc giường thì Trúc được
sự mật báo của em ruột, đã đẩy cửa vào bắt quả tang. Trước sự đau khổ
vật vã của vợ, Năm Cam thề sống thề chết và đành lòng chia tay cô tình
nhân bé bỏng. Cũng chẳng lấy đó làm xấu hổ, Kim Anh vẫn lui tới nhà Năm
Cam và vẫn coi Trúc là “ bà chị thân yêu” dù nếu có cơ hội cũng sẵn sàng
cuỗm luôn “ ông- anh- rể”!
*
* *
Trong thời điểm này đã xảy ra một việc dẫn đến bất hòa đầu tiên của Bảy Xi và Năm Cam.
Thịnh Thăng Long, một tay giang hồ khoác áo lính Nhảy Dù, là cặp bài
trùng với Sơn đảo-kẻ bắt đầu vươn lên ngôi vị độc tôn sau cái chết của
Đại Cathay, đã *ng độ với Cu Trắng, một du đãng ở khu Nhà Lô Cô Giang,
vốn chưa có tên tuổi gì. Hôm ấy, Cu Trắng đi cùng đàn anh Tám lâu vào
một quán nhậu. Cu Trắng mới trải qua một vụ thanh toán nên cánh tay mặt
bị thương phải bó thuốc. Thịnh Thăng Long đến sau gặp Tám lâu nên tiến
lại chào hỏi. Là đàn em, Cu Trắng tất nhiên phải lên tiếng chào Thịnh.
Rất kẻ cả, Thịnh đưa tay ra bắt… Cu Trắng lật đật thò cánh tay ra
lành lặn ra nhưng, tay trái với tay mặt làm sao có thể thực hiện được cú
bắt tay? Ngỡ là Cu Trắng chơi xỏ, Thịnh hất hàm:
- Mày là thằng nào ? Bộ muốn giỡn mặt hả?
Cu Trắng nổi giân quay đi. Thịnh cho rằng tên đàn em này muốn tỏ vẻ, nên quay qua hỏi Tám lâu:
- Anh Tám, bộ thằng này không biết tôi à?
Tám lâu chưa kịp trả lời, Cu Trắng đã cười lạt trả lời:
- Anh là ai cũng kệ xác anh! Tại sao tôi phải biết?
Thịnh Thăng Long nhào đến đấm vào mắt Cu Trắng-“ gã đàn em láo xược”
nghiêng mình tránh thuận tay chụp lấy chai bia đập xuống cạnh bàn thọc
luôn vào mắt Thịnh. Tay anh chị gốc Bắc di cư chỉ kịp lắc đầu tránh thì
đã tối sầm mặt mũi. Tám Lâu ngẩn người ra trước sự việc quá bất ngờ, chỉ
kịp kéo tay Cu Trắng ra xe tẩu thoát trước khi đàn em của Thịnh kịp đến
…
Liên tục cả tháng trời, bọn lính nhảy dù-đàn em của tay cộm cán nhứt
nhì Sài Gòn đã quần đảo với súng ống dấu trong mình để tìm cho ra “
thằng phạm thượng”. Cu Trắng biết yếu thế lánh mặt và đi đâu, trong túi
ba đờ xuy cũng có sẵn hai quả lựu đạn mini để ứng phó. Thương đàn em,
Tám lâu đành khuất thân đi tìm Thịnh Thăng Long để điều đình. Với biện
pháp hạ mình và tiền bạc, cuối cùng thì băng nhảy dù cũng chấp nhận bỏ
qua cho Cu Trắng.
Tuy phải cầu hòa nhưng việc dám ra tay “ quất-xụm” Thịnh Thăng Long
của Cu Trắng đã làm cho giới giang hồ Sài Gòn phải ít nhiều kiêng nể .Gã
cũng đã khẳng định được vai vế thuộc loại chiếu trên của mình!
Bảy Xi nghe chuyện, vội tìm với gặp Cu Trắng để cầu thân từ đó, Cu
Trắng nghiễm nhiên được Bảy Xi xem là thượng khách và liên tục dúi từng
xấp tiền dày cộp vào túi Cu Trắng.
Năm Cam và một số tay chân thân tính trước đây của Bảy Xi không tránh
khỏi sự ganh tị ngấm ngầm và bắt đầu bất mãn với cách cư xử của Bảy Xi…
Năm Cam hiểu tất cả suy nghĩ ấy của những chiến hữu. Y bèn lợi dụng
việc có thể thu xếp được các khoản chi của sòng Bảy Xi để lén lút lấy
tiền xâu chi ra cho đàn em.
Người vợ sau của Bảy Xi đem mọi việc báo lại với chồng. Bảy Xi suy nghĩ rồi một hôm bèn nói với kiểu nửa đùa nửa thực:
- Cậu lúc này nuôi lính ma nhiều lắm phải không?
Năm Cam không trả lời và quyết định sẽ rút bỏ khỏi sòng Bảy Xi. Cũng lúc đó, xảy ra vụ Tài chém…
*
* *
Đang ngồi uống rượu tán gái cùng bạn bè giang hồ, Năm Cam nhìn thấy từ xa ông anh rể quí hóa tất tả đi lại.
- Anh nhịn thằng này hết nổi rồi! Bảy Xi hậm hực.
Năm Cam đưa mắt dò hỏi. Bảy Xi kể lại một cách đầy bức xức:
“ Sòng bạc của Bảy Xi đã từ lâu có thông lệ, bất kỳ anh em giang hồ
nào có tầm cỡ và giao du quan hệ, khi ghé lại đều được dúi cho ít bạc
xài chơi.
Tài chém vẫn thường xuyên ghé lại lấy tiền. Có lại một chút bực bội y
đã gây ra cho Bảy Xi. Xuất thân là một tay anh chị có tầm cỡ, Tài chém
đã từng xách dao rượt Đại Cathay chạy có cờ nên y tỏ ra không kính trọng
Bảy Xi như lòng Bảy Xi muốn.
Cộng thêm, Tài chém đang hiện là cận vệ cho trung tá Trân biệt kích,
em vợ đại tướng tổng tham mưu trưởng quân đội cộng hòa Cao Văn Liêm, y
thả sức tung hoành quậy phá và coi mọi tay giang hồ khác dưới tầm mắt.
Hôm ấy, Tài chém ghé đến sòng bạc Bảy Xi.
Oâng chủ sòng hôm nào cũng lao vào sát phạt cùng các tay con đang thua xiểng liểng…
- Kêu Tài chém đợi tao một chút! Bảy Xi nói với tên đàn em kia tên này vào báo có “ khách quí” đến tìm.
Tài chém hơi phật ý nhưng cũng ráng đợi. Lát sau Bảy Xi bước ra với gương mặt không lấy gì làm vui vẻ.
- Tiền tao đưa cho mày là hảo ý anh em chớ có phải là thiếu nợ thiếu nần gì mà mày mà mày tới đòi? Bảy Xi nổi cơn thịnh nộ.
Thế là xảy ra cuộc cãi vã dữ dội suýt dẫn đến xô xát nếu không được mọi người can ngăn.
- Ngày mai tôi sẽ đến, nói chuyện phải quấy với anh! Tài chém buông lời hăm dọa trước khi lên xe đi về.”
*
* *
- Bây giờ ý anh tính sao? Năm Cam hỏi.
- Thì chắc phải chơi thằng này thôi! Có điều, sợ chơi không lại nó thì cũng dẹp tiệm! Bảy Xi trả lời.
Hôm sau, Năm Cam đi tìm Sáu Nhà từ sáng sớm. Quá trưa một chút, Năm
Cam đã ngồi trong quán cà phê phía trước sòng Bảy Xi để đợi Tài chém.
Trong cạp quần của y là khẩu súng của Sáu Nhà!
Chẳng biết được mật báo, Tài chém không xuất hiện. Liên tục cả tuần
lễ, gã du * khoác áo biệt kích đã như bốc hơi khỏi Sài Gòn. “ Tôi làm
việc này là vì cái nghĩa đối với anh Bảy chớ anh cư xử với tôi và đàn em
tệ lắm…” Năm Cam nói làm Bảy Xi chưng hửng.
Năm Cam suy nghĩ một lúc rồi còn nói tiếp:
- Đực bà Tiều đến phá sòng, cũng tụi tôi… Tài chém *ng với anh, nhìn
qua nhìn lại cũng là tụi tôi! Vậy là thử hỏi, anh có cư xử với em út
được như anh đối với Cu Trắng không? Sao mấy việc gì căng như kiểu này,
anh không kêu Cu Trắng giúp anh?
Từ sau lần nói chuyện ấy, tình cảm của Năm Cam dành cho Bảy Xi đã gần như chỉ còn hình thức.
Năm Cam bắt đầu lui tới những sòng bạc có tên tuổi khác ở sòng bạc ở
khắp Sài Gòn, giao du và kiếm mối làm ăn. Trong thời gian này, số tiền
lương Năm Cam lĩnh của lính Quân Vận là gần 26 ngàn đồng, y phải đập
thêm vào cho đủ 30 chục ngàn giao cho đội trưởng để mua chân lính kiểng
mà ở nhà kiếm tiền.
Xoay sở với hai vợ năm đứa con, Năm Cam phải học thêm một số mánh lới của thầy kỳ bẽo Bảy Huê Kỳ để trổ ngón nghề kiếm tiền.
Huỳnh Tỳ, một tay ăn chơi khét tiếng nằm trong danh sách Tứ đại thiên
vương Đại- Tỳ- Cái- Thế, đã thọ ớn cứu mạng của Năm Cam,mối giao tình
của họ kéo dài đến tận 1995 mới xảy ra mối bất hòa.
Sòng bạc của Mã Chí, người Việt gốc Hoa ở đường Trần Hoàng Quân, Chợ Lớn, vốn hoạt động rất sầm uất và có thu nhập rất cao.
Mã Chí giao công tác bảo vệ sòng cho Huỳnh Tỳ và Cư già cảnh sát hình sự củaNha Đô Thành.
Công việc đang suôn sẽ, chợt xảy ra chuyện.
Trung uý Hợi- một trùm giang hồ khét tiếng, là sĩ quan của sư đoàn dù
đóng quân ở vừon Tao Đàn để bảo vệ dinh tổng thống, đang bành trướng
thế lực, đã đưa một số đàn em thân tín như Kha, Tám, Thanh… đến tận sòng
của Mã Chí.
- Để làm ăn yên ổn, ông việc đưa tiền hàng tháng cho tụi tôi! Hội nói.
Nghe danh bọn hung thần này đã lâu, Mã Chí đon đã:
- Dạ, quí anh cần cỡ bao nhiêu?
- Năn chục ngàn đồng! Hợi trả lời với một nụ cười nửa miệng.
Mã Chí nghe nói mà rụng rời tay chân, số tiền ấy quá lớn đối với sòng
của y. Phải nhớ vào thời điểm ấy, một lượng vàng trị giá chưa đến hai
chục ngàn đồng.
Sau khi hẹn lại đến chiều tối với Hợi điên, Mã Chí vội vàng cho mời Huỳnh Tỳ và Cư già đến để bàn bạc.
- Không thể được! Huỳnh Tỳ phản đối. Y cũng thừa biết Hợi điên thuộc
loại khó đối phó, nhưng chấp nhận thì y và Cư già còn mặt mũi nào ngữa
tay nhận tiền gác sòng của Mã Chí?
Mã Chí có phần ngần ngại. Gã dân chơi gốc Tàu này đã từng nghe nhiều
về tật bắn súng bừa bãi của trung uý Hợi. Tên sĩ quan nhảy dù này lúc
nào bên mình một khẩu súng carbin M2 cưa bảng, cưa nòng và đã thanh toán
không ít đối thủ. Trong băng của y còn có tên Thanh, là em của bà Trần
Hiệu Khiêm, đương kim *.
Cuối cùng, nổi lo sợ đã bị lòng tiếc của thắng thế. Mã Chí tặc lưỡi:
- Tùy mấy ông tính sao thì tính, miễn êm xuôi là được.
Huỳnh Tỳ ôm khẩu ruleau nòng dài của Cư già phục sẵn thang dẫn vào
khu chung cư Trần Hoàng Quân, địa điểm mỡ sòng của Mã Chí. Y tin có thể
đẩy lui cuộc lấn chiếm này của Hợi điên.
Hai chiếc honda 67 ghé đến sòng Mã Chí khá đúng giờ hẹn.
- Dạ, mấy anh cầm đỡ 20 ngàn! Gã Tàu niềm nở.
Thay vì trả lời, Hợi điên vén vạt áo khoác để lộ ra khẩu carbin. Sau
một loạt đạn, tất cả đèn trong khu chung cư tắt phụt, các con bạc sợ vãi
cả kinh hồn thi nhau tìm chỗ nấp.
Say máu, Hợi điên cỉa luôn khẩu súng vào giữa căn phòng xiết cò. “
Chát! Chát” hai phát súng ngắn bắn ra từ một góc tối. Hợi điên và đồng
bọn vội nép vào sát tường để tránh đạn.
Lắp băng đạn 30 viên thứ hai vào khẩu súng, Hợi điên, Kha, Tám, Thanh…bắt đầu cuộc tấn công trả đũa.
Huỳnh Tỳ, dẫu sao cũng không phải là một chiên binh chuyên nghiệp như bọn lính nhảy dù này, đã tuyệt vọng chống trả.
Trong lúc bắn nhau, một viên đạn từ khẩu súng P38 của Huỳnh Tỳ đã lạc
trúng vào một bé gái khoảng 14,15 tuổi và giết chết cô gái ngay lập
tức!
Hết đạn, Huỳnh Tỳ vội chuồn theo lối thoát hiểm cứu hỏa để ra ngoài.
Bọn Hợi điên phán đoán địch thủ đã hết đạn, vội vã truy kích.
May mắn cho Huỳnh Tỳ, vừa ra đến đường đã vội gặp Năm Cam chạy xe honda dame lịch kịch tới.
- Cứu anh với Cam ơi…Huỳnh Tỳ cầu cứu.
Ngay lập tức Năm Cam dùng xe chở Huỳnh Tỳ chạy luôn về hướng Sài Gòn.
Cho đến chỗ tạm thời gọi là an toàn, Năm Cam mới nhìn lại bộ dạng
thảm hại của bại tướng Huỳnh Tỳ: quần áo xốc xếch, mặt mũi đầy vệt bụi
bặm và đôi dép đã rơi mất từ lúc nào!
Ghé lại một tiệp tạp hoá để mua cho đàn anh một đôi dép nhựa. Năm Cam lặng thinh nghe Huỳnh Tỳ kể lại cớ sự.
- Anh chơi không lại tụi lính nhảy dù này đâu! Năm Cam kết luận.
Sau sự việc này, Mã Chí sạt nghiệp. Cái chết oan uổng bởi viên đạn
ruleau do tay xạ thủ tồi là Huỳnh Tỳ, đã được thu xếp êm xuôi với một
khoản tiền cho gia đình nạn nhân và một số tiền khổng lồ khác để nội vụ
đi vào quên lãng trong hồ sơ cảnh sát. Mã Chí phải bán nhà và toàn bộ tư
trang của vợ con.
Tất nhiên, sòng bạc Mã Chí coi như sập tiệm.
Huỳnh Tỳ phải lánh mặt một thời gian trước sự truy sát của băng Hợi
điên và đành nhờ người đến năn nỉ tên trung uý nhảy dù này để có thể
tiếp tục sống nghề giang hồ.
Năm Cam chợt nhận ra, nếu cứ mãi làm một con chốt thí trên bàn cờ của
Bảy Xi, một ngày nào đo,ù y cũng sẽ ăn đạn mà ra đi, bõ lại vợ con. Từ
đó, Năm Cam chấm dứt những vụ *ng độ để tìm lấy danh tiếng và trở nên
cẩn thận hơn khi lui tới những nơi phức tạp.
*
* *
Bảy Xi trong một lần xộ khám, đã nhờ đến sự giúp đỡ cưu mang của một
hung thần khám Chí Hòa bấy giờ là Lâm chín ngón. Sau khi được tha về,
Bảy Xi rủ Năm Cam đến thắn nuôi Lâm.
Thành tích của Lâm chín ngón lúc bấy giờ đã bắt đầu vang dội vì ít nhiều cũng làm cho Năm Cam phải kiêng nể kính trọng.
Lâm chín ngón tên thực là Lê Ngọc Lâm, đàn em thân tín của Đại Cathay, lớn hơn Năm Cam 2 tuổi, sinh năm 1945 như Ngô Văn Cái.
Rơi vào khám Chí Hòa với tội danh cướp, Lâm sống một cách trưởng giả
với nghề buôn bán heroin ở ngay trong khu gaim giữ. Hằng tháng vợ Lâm là
Hương đến thăm, y gởi về vài triệu đồng đều đặn.
Cũng do tranh chấp việc mua bán heroin, Cương khùng- em ruột Sơn đảo-
trùm anh chị gốc ngã ba Ông Tạ, khu Cầu Sạn, đã tìm đến tận phòng giam
để tát tai Lâm. Với tên tuổi của mình, Cương ngỡ là Lâm sẽ nhũn ra như
con chi chi. Nào ngờ Lâm rút dao trong mình đâm một nhát vào giữa ngực
Cương. Sau khi Cương gục ngã, đàn em của Cương và Sơn đảo, tràn vào khu
FG để quyết giết Lâm trả thù. Nếu không nhờ Tuấn đã, một đàn anh lưu lạc
từ Nha Trang vào, làm trùm khu quân phạm, cứu mạng Lâm bằng cách đưa
đàn em dưới trướng phong tỏa các ngõ ra vào bằng những cây đòn gánh cơm,
Lâm đã hết sống!
Sơn đảo nghe tin hung tin, đi cùng thiếu tá Đường nhảy dù đến khu Chí Hòa để chỉ mặt Lâm để trả thù cho em trai.
Hoàng đầu lâu, là du đãng ở khu Chuồng Bò- Ngã Bảy, cùng xóm với Lâm
và là bạn từ thuở nhỏ, lại có vợ gốc Bắc di cư ở chợ Ông Tạ. Bằng cách
mua cho vợ Hoàng một sạp vải và gởi vợ đem vào cho Hoàng một triệu đồng
để tiêu vặt, Sơn đã nhận được lời hứa giúp y trả thù Lâm.
Sau vụ giết người, Lâm bị giam ở khu cách ly OB1 cùng với một đệ tử
lo phục vụ cho Lâm là Lý Lắc. Muốn tiếp cận mục tiêu, Hoàng dàn cảnh để
chém vào mặt một tên trung sĩ gác trại giam, và y đã đạt được ý đồ…
Hoàng được đưa vào ở chung với Lâm, có lẽ Sơn đảo cũng đã bố trí sẵn với
chỉ huy trại giam.
Suốt mấy tuần lễ, Hoàng chờ cơ hội hạ thủ. Chẳng biết vì y sợ bản án
giết người đè nặng trên vai khi giết Lâm hay y còn nghĩ lại chút tình cố
cựu, nên Sơn sốt ruột bèn viết thơ thúc giục.
Lá thơ của Sơn với một nội dung chết người, rủi ro làm sao, lại đưa
vào phòng củaLộc điên-bạn thân Lâm chín ngón, trước khi chuyển xuống
bằng dây cho Hoàng. Tò mò, Lộc điên xem thử và tá hỏa khi thấy sinh mạng
của Lâm chỉ còn được tính bằng giờ!
Thương bạn, Lộc điên tìm cách gởi lá thư xuống cho Lâm xem trước. Đến
chiều, Lộc mới gởi cho Hoàng đầu lâu. Y cũng không muốn gây thù chuốc
oán với tay anh chị số 1 Sài Gòn là Sơn đảo.
Nhận lệnh, Hoàng quyết định ra tay ngay trong đêm ấy. Theo qui luật,
sau giờ điểm danh, Hoàng bảo Lý Lắc lấy một lon guigoz nước sôi để y
luộc kim chích thuốc phiện và pha trà. Y dự tính sẽ ra tay sau khi đã
phê thuốc.
Sự thực thì Lâm, dù biết trước cũng không dám có phản ứng với Hoàng.
Xét về uy danh giang hồ Hoàng được xem là trên cơ Lâm, cộng thêm Hoàng
còn là võ sĩ đai đen Taekwondo!
Đến đúng giờ đã ước tính, Hoàng đứng dậy rút dao.
- Ê Lâm, hôm nay thay mặt Sơn đảo, tao tính sổ với mày!
Nhanh như cắt, Lâm chụp lấy tấm chăn đắp để tung ra đỡ nhát đâm đầu
tiên. Cây cột giữa phòng đã cứu mạng Lâm, y chạy vòng quanh cây cột để
thoát khỏi nghững nhát đâm trí mạng. Chợt Lâm nhìn thấy lon nước sôi
đang để ở cạnh tường. Lâm chỉ kịp chụp lấy tạt ngược ra đằng sau. Thời
may, Hoàng lãnh trọn một lon guigoz đầy nước sôi vào giữa mặt. Phản xạ
tất nhiên của Hoàng là buông dao bưng lấy mặt. Lâm không còn thì giờ để
tính toán, y nhanh tay chụp lấy luôn con dao Hoàng vừa rơi xuống đất.
Một nhát, hai nhát… Lâm đâm như một kẻ mất trí cho đến lúc Hoàng chỉ là
một cái xác!
Lâm lôi xác của Hoàng đến bên hồ nước và lại đâm. Có lẽ y đã hoàn
toàn khủng hoảng sau cú suýt chết vừa rồi. Sau đó, Lâm tắm rửa cho thi
thể đối thủ, mặc dho Hoàng một bộ quần áo sạch sẽ tinh tươm và rồi bưng
mặt khóc.
Mãi đến khuya, y mới gọi giám thị gác trại báo tin mới giết Hoàng đầu
lâu. Tổng cộng trên thi thể nạn nhân,theo báo cáo của pháp y, có đến 47
nhát đâm!
*
* *
Lâm chín ngón, phải nói là mạng lớn, kế hoạch phục thù lần nữa của Sơn đảo kết thúc đột ngột bởi 2 phát đạn Colt 45.
Sơn đảo, tên thực là Vũ Đình Khánh, người gốc Hà Nội di cư, thành
danh sau lần bị kết án “ gian nhân hiệp *” xử năm năm tù đày ra Côn Đảo.
Vốn là người thông minh có chút đởm lược, Sơn trở về với quyết tâm gầy
dựng cơ đồ. Bằng đủ mọi biện pháp, gái va tiền, Sơn đảo lôi kéo kết thân
hàng loạt sĩ quan sư đoàn dù từ cấp thiếu tá trở lên. Với sự đỡ đầu về
quyền thế và sức mạnh. Sơn thâu tóm mọi quyền lợi ở khu vực Tân Bình và
dần dần bành trướng lực lượng ra khắp các nơi. Cuối cùng thì Sơn cũng đã
đạt được ý nguyện, toàn bộ giới giang hồ Sài Gòn đều thừa nhận vị trí
số 1 của Sơn đảo. Những kẻ bất phục đều phải giữ kín trong lòng không
dám ra mặt phản đối nếu không muốn mất mạng oan uổng bởi bọn lính dù nổi
danh hiếu chiến.
Ơû đỉnh cao quyền lực, Sơn bắt đầu ngạo mạn.
Sơn có một nhân tình rất đẹp và hết sức thông minh, khéo chiều
chuộng. Trang- tên cô gái, là vợ cũ của Lộc điên và có một đứa con trai
với Lộc, vốn xuất thân là cave. Sơn chết mê chết mệt bởi tài nghệ mồi
chài của Trang, khổ nỗi, như bất kỳ cô gái nào có nguồn gốc xuất thân từ
giới bán phấn buôn hương nào, Trang cũng chơi trò “ bắt các hai tay”.
Phạm Bá Y- tức Y cà lết, xuất thân khu xóm đạo Nguyễn Bá Tòng, là một
tay tổ buôn bán bạch phiến ở Sài Gòn, cùng đeo duổi theo người đẹp và
tất nhiên cũng lén lút “ trút lọp” của Sơn đảo không ít lần. Sơn biết và
gặp hỏi Trang nhưng cô nàng chối biến, đồng thời nhỏ ít giọt nước mắt
làm Sơn khó bề làm căng.
Tết năm 1974, Sơn đi cùng vài sĩ quan dù đến nhà tìm Trang theo lời
mời của người đẹp. Vào đến nhà Trang, đã thấy Y cà lết lù lù có mặt cùng
vài đàn em thân tín, Sơn nóng mũi nói gằn:
- Chà cũng có mặt mày ở đâu nữa hả? Đ.m., sao đến sớm thế?
Y cà lết tuy dưới cơ Sơn đảo nhưng nói chuyện quá đỗi ngạo mạn của Sơn làm y không chịu nổi. Y bèn trả lời:
- Tôi nói chuyện với anh đàng hoàng, sao anh chưởi thề?
- Aø, thằng này láo…mày muốn bắt lỗi tao hả? Sơn quát và đến tát vào mặt Y cà lết.
Dù biết kém thế nhưng Y cũng lập tức lao vào để trả miếng với Sơn.
Trang thấy tình hình quá sức căng thẳng vội can ngăn, cộng thêm số tuỳ
tùng của cả hai ông trùm đều không muốn xảy ra chuyện cũng lên tiếng
vuốt ve cả hai anh hùng đang nổi cơn thịnh nộ.
Cuối cùng Y cà lết bỏ ra xe hơi cùng đám đàn em đi mất.
Ít lâu sau, Sơn đảo đã hầu như quên mất chuyện xung đột với Y cà lết.
Sơn vẫn lui tới vũ trường Quốc Tế, nơi Trang đang làm tài pán hằng đêm.
Vào đêm định mệnh ấy, khi ra về Sơn nhận ra bánh xe của chiếc honda
90 đã bị xì xẹp lép. Đảo mắt nhìn quanh, Sơn bèn dắt bộ xe qua bên kia
đường Lê Lợi, nơi còn ánh lửa bập bùng của một chỗ vá ép.
“ Ê, Sơn đảo…”. Một chiếc honda chạy trờ tới bên cạnh Sơn. Người ngồi
sau vừa quát lớn vừa rút khẩu Colt 45 bắn luôn hai phát. Trúng đạn, Sơn
ngã vật xuống…
Đến gần 2 giờ sáng Sơn trút hơi thở cuối cùng ở bệnh viện.
Nhiều nguồn dư luận khác nhau về cái chết của Sơn đảo. Có kẻ cho rằng
do Sơn lấn vào lãnh địa Cây da Xà của Bảy Diệm nên bị ông trùm cờ bạc
này thanh toán, nhưng riêng Năm Cam, y có thể nhận định ngay rằng chính
bàn tay Y cà lết hạ thủ.
Nhiều năm sau này, trước khi ra pháp trường để đền tội do cướp của
giết người, Phạm Bá Y đã thừa nhận chính y và em ruột đã phục kích bắn
chết Sơn đảo để rửa mối nhục ở nhà Trang.
Bài học từ cái chết của Sơn đảo đã khiến cho Năm Cam hết sức cẩn thận
trong lời ăn tiếng nói, cách giao tiếp kể cả những kẻ họ xem là dưới
tầm mắt. Cũng chính nhờ sự mềm dẻo trong cư xử này, Năm Cam đã giữ được
an toàn cho mình và gia đình trong suốt bao nhiêu năm lăn lộn giang hồ.
Trong giai đoạn này, Năm Cam đã phải gồng gánh cho cô vợ bé ở khu gia
binh căn cứ Sóng Thần của Thuỷ Quân lục chiến. Y lui tới các sòng bạc
để trổ chút ngón nghề đã học được của anh Bảy Huê Kỳ và cũng tạm sống
được. Ba Trình, một chủ sòng lâu đời ở khu Thị Nghè, vốn nổi danh trọng
nghĩa khinh tài đã tìm cách giúp đỡ Năm Cam. Cũng tại sòng bạc này, Năm
Cam đã chú ý đến một tên giang hồ mới lớn chuyên gác sòng cho Ba Trình
là Luông điếc. Mối quan hệ của Năm Cam với tên này, về sau hết sức chặt
chẽ, do Năm Cam phát hiện ra máu liều lĩnh của Luông điếc cộng thêm sự
trung thành của Luông đã thử thách qua nhiều lần để tỏ ra tin cậy được.
Trúc đã sinh ra đứa con thứ năm, một đứa con trai. Về sau, chính
Trương Hiền Bảo, tên đứa con này, là đứa con được Năm Cam kỳ vọng sẽ đủ
bản lĩnh và thủ đoạn để có thể tiếp quản sự nghiệp giang hồ của mình. Đó
là chuyện sau này, còn lúc bấy giờ, gánh nặng của Hai *, năm đứa con
với Trúc, Thọ-con chị Tư Xẩm và hai đứa con với Mai, đã làm cho Năm Cam
phải xoay sở đủ các kiểu hầu có thể duy trì được cuộc sống tạm gọi là
sung túc cho cả ba gia đình.
Năm Cam đã thôi là một tên anh chị có máu liều lĩnh từ lúc rút ra
được các bài học nhãn tiền của các bậc đàn anh. Y nghiệm ra được một
điều, để có thể tiến lên vị trí số 1 của giang hồ không khó, nhưng có
thể giữ được sự an toàn cho bản thân ở vị trí ấy, tất cả những kẻ đi
trước đã không làm được.
Vụ bắn nhau giữa băng người nhái và băng nhảy dù đã làm cho Năm Cam
quyết định sẽ không bao giờ trực tiếp đối đầu với bất kỳ ai, dù có ở vị
thế kém cõi hơn y.
Lúc đó, khoảng hơn 30 quán bar ở đường Tự Do (Đồng Khởi bây giờ) và
dọc mé sông Sài Gòn, đều phải đóng hụi chết cho nhóm người nhái, một đơn
vị lính đánh thuê của Hải quân, do Châu Nhị cầm đầu. Hàng loạt tên tuổi
dưới trướng của Châu Nhị đều là tay dữ dội: Tầm nhái, Tòng bác sĩ,
Trọng Tấn..v..v. Sỡ dĩ bọn này có thể tác yêu tác quái vì một lý do đơn
giản: Nguyễn Cao Kỳ-phó tổng thống, đã sử dụng Châu Nhị-một võ sĩ huyền
đai nhị đẳng Thái Cực Đạo, làm cận vệ. Máu của anh chàng du * trường
Bưởi đã làm cho kỳ, dù đã được đỉnh cao của quyền lực, vẫn thích vai trò
của một người hùng theo kiễu giang hồ du đãng.
Quyền lợi của băng người nhái do băng Châu Nhị cầm đầu, bòn rút từ
các snacbar nhan nhản ở khu trung tâm Sài Gòn, từ các đầu mối buôn bán
heroin cho lính Mỹ và sau này là do giới dân chơi thủ đô, từ những phi
vụ đỗi tiền dolla xanh đỏ. Số tiền kiếm được đủ để cho toàn bộ những tay
máu mặt giang hồ này ăn chơi trụy lạc và bao nhân tình là các cô vũ nữ,
chiêu đãi viên snacbar hoặc những cô tiểu thư con nhà gia thế nhưng
thích một cuộc sống thiêu thân.
Băng nhảy dù tôn Hơiï điên lên làm người cầm trịch vì y gan dạ, liều
mạng một cách rất du côn. Tuy lực lượng có phần bùng hậu hơn, vì tập
trung được những tên nhảy dù xem mạng sống như trò đùa, nhưng quyền lợi
của băng Hợi điên không được như băng người nhái. Có hai lý do cho việc
này;Băng nhảy dù- từ lúc được đương kim tổng thống tin cậy, rút về luân
phiên bảo vệ dinh Độc Lập với quân số cả tiểu đoàn, mới có cơ hội tiến
công vào khu trung tâm Sài Gòn với toàn bộ những thứ ăn chơi thời thượng
dành cho những kẻ lắm tiền dư thì giờ. Trâu chậm uống nước *c, những
nơi béo bở đã lọt hết vào những tay anh chị đứng chân từ lâu, còn lại-
Hợi điên và các chiến hữu, chỉ còn những xương xẩu vụn vặt. Kế đến, lực
lượng hải kích tức là người nhái hải quân, với đặc trưng của công việc,
đều được cấp súng gắn để lúc nào cũng kè kè bên hông, đủ để làm nản lòng
những tay anh chị khét tiếng vốn thành danh từ mã tấu, dao lê. Trong
khi đó, những đơn vị tác chiến trực tiếp, kể cả binh chủng nhảy dù vốn
được xem là con cưng của quân đội miền Nam, cũng chỉ được cấp Colt 45
với cỡ nòng 11 ly 42, cho cấp chỉ huy đại đội và quản lý khá chặt chẽ.
Chẳng lẽ có chuyện *ng độ lại vác M79 hoặc M16 đi ngờ ngờ ngoài phố xá?
Như bao chàng trai tứ chiến khác, Hơi điên cũng có cho mình một ả
giang hồ gọi là bà vợ. Và cũng theo thói thường, ả suốt ngày ca cẩm với
Hợi về việc “ thua chị kém em”. Hơi điên lao vào cuộc tranh chấp không
ngừng nghỉ với các hảo hán khác cũng vì một phần về việc này.
Sự so kè tranh chấp ngấm ngầm quyền lợi các băng tuy chưa xảy ra vụ
*ng độ nào lớn nhưng cũng làm cho tất cả những tay giang hồ khoát áo
lính phải cảnh giác. Cuối cùng thì tất cả vui vẻ chấp nhận một giải pháp
ôn hoà. Hợi điên đồng ý sẽ đi gặp Châu Nhị để cùng nhau chia chác quyền
lợi. Mảnh đất Sài Gòn quá màu mỡ và quá rộng lớn, đủ để nuôi sống toàn
bộ giới giang hồ, vấn đề đó la phương pháp thương lượng, phân chia sao
cho sòng phảng mà thôi!
Aû đàn bà của Hợi lại là kẻ duy nhất phản đối biện pháp thương lượng
hoà bình. Aû òn ỉ với gã trung uý nhảy dù khét tiếng táo tợn, hung bạo:
- Bọn người nhái đâu phải là đối thủ của anh? Anh nhận chia chác với
bọn nó làm gì? Bọn nó sợ băng của anh mới phải lùi bước, sau này có cơ
hội, dễ gì bọn nó tha anh? Thằng Châu Nhị , anh tin được ở nó sao?
Nghe “con rắn trên cành táo” ton hót, Hợi điên đâm ra nghĩ ngợi. Thấy có vẻ chồng đã xuôi tai, ả bồi luôn:
- Chi bằng, bây giờ bọn nó tưởng anh đồng ý hòa hoãn sẽ mất hết cảnh
giác, anh đem lực lượng của anh lên đẩy sạch bọn nó là xong!Đất Sài Gòn
này, ai dám đứng ra đối đầu với anh? Lúc đo,ù anh tha hồ…
Đúng ngày định mệnh ấy, Hợi điên khoác lên mình chiếc áo giáp chống
đạn và mang theo khẩu súng tiểu liên tiến công CAR15- thường được lính
miền Nam gọi là M18. Theo Hợi điên trên chiếc xe có gắn đại liên M60 có
đầy đủ mặt Kha, Tám, Thanh… Đã cho trinh sát đi thực tế trước để báo lại
vị trí của “ địch”, Hợi xộc luôn vào phòng trà Tự Do của ca sĩ Khánh Ly
làm chủ, chĩa luôn khẩu súng tiểu liên về phía Châu Nhị xiết cò!
Châu Nhị đang ngồi tán gẫu cùng cô thâu ngân với ly whisky trước mặt,
vừa thấy Hợi điên xộc vào đằng đằng sát khí vội thò tay vào bụng rút
khẩu rulaeu nòng trung ra toan chống trả. Loạt đạn 5ly 56 đã quất Châu
Nhị gục xuống tại chỗ trên tay còn lăm lăm khẩu súng ngắn!
Vừa nghe đạn nổ, Trọng Tấn và băng người nhái đang ngồi ở bàn gần bar
vội lăn luôn xuống đất. Hợi điên diệt xong đối thủ vội quay ra cửa…
Trọng Tấn- phó tướng của Châu Nhị, với bộ thần kinh bằng thép và phản
của một người lính, đã rút kịp súng ngắn dấu trong chiếc áo mưa trên
ghế, nã luôn vào gáy của Hợi. Aùo giáp của Mỹ đã không che được phần đầu
của gã trung uý nhảy dù, gã ngã xuống trong vòng tay Kha và Thanh. Vừa
dìu được chủ tướng ra xe Jeep, Kha phải ngậm ngùi vuốt mắt cho Hợi. Gã
sĩ quan nhảy dù khét tiếng du côn đã chết trên tay của đồng bọn bởi một
viên đạn rulaeu duy nhứt phá nát phần hậu não.
Thế là ngay trong một ngày, giang hồ Sài Gòn mất hai con cọp dữ bởi một nguyên nhân hết sức nực cười: đàn bà!
Vụ thanh toán đẫm máu ấy của băng nhảy dù và băng người nhái đã làm
Năm Cam thức ngộ được nhiều điều. Y hiểu rằng, đất Sài Gòn màu mỡ có đủ
chỗ cho mọi dân giang hồ, nếu còn có thể xử lý ôn hòa để cùng sống, cùng
chia chác vẫn tốt hơn thanh toán đối thủ. Khi không còn con đường nào
khác, việc sử dụng biện pháp mạnh, phải hết sức khéo léo và phải đến nơi
đến chốn mới không bị trả đũa. Thứ hai, y cho rằng: là một đàn anh, dứt
khoát không để lung lạc, sai khiến.
Nguồn:vietyo.com
Post a Comment