Chương 3
Sự thay đổi hơi giống như nằm mơ đang ở trên một hành
tinh khác, chỉ mơ hồ giống với hành tinh chúng ta, sau đó tỉnh dậy trong tình
trạng hoa mày chóng mặt, thấy mình đang ở trên chính hành tinh đó. Nó cũng lạ
lùng như sự vĩnh cửu, làm anh nghĩ đến thực tại mỗi lúc một trôi giạt ra xa,
teo lại cho đến khi chỉ còn một hình ảnh duy nhất thỉnh thoảng bập bềnh trong
trí nhớ: con gái anh, con đường đằng trước một nông trại người da đỏ, con chó
săn chim của anh. Suốt tháng ở trong phòng, Cochran đã khai quật một cách hệ thống
và dốc hết trí nhớ của anh để cuối cùng, khi đã sẵn sàng rời phòng bệnh, anh
không nhận ra thế giới như lúc anh để lại. Sự tương đồng không đủ mạnh để kéo
anh trở lại và ban đêm khi các hình ảnh lại đến, anh cảm thấy chẳng có gì quyến
luyến nên chúng lại vội vã ra đi. Lúc đầu anh tưởng sự chấn thương nghiêm trọng
đã làm đầu óc anh hỗn loạn, nhưng anh sớm hờ hững với những lời giải thích của
y học. Anh đã khoanh vùng và cô lập nỗi đau đớn không thể xuyên thấu, và nó sẽ
giữ cho anh sống. Khi các hình ảnh xuất hiện, anh nhìn thấy nó lần nữa qua màu
đo đỏ của mau mập mờ trước mắt, con chó lao vụt qua phòng và rít lên những tiếng
chói tai vẫn còn cháy bỏng màng nhĩ, anh có thể nghe thấy rõ ràng như cho đĩa
ghi âm vào máy. Cochran chỉ nhớ lờ ờ không hiểu vì sao cánh tay anh đột ngột bị
gẫy, quai hàm, xương gò má và xương sườn bẹp dúm dó. Anh chẳng bận tâm đến những
thứ ấy, chỉ có điều giọng nói của người khác mà anh có thể tái tạo lại hát hoặc
thì thào với anh một cách kỳ quái.
Sau cái đêm dài dằng dặc ấy, đến sáng anh cho Diller biết
anh đã tỉnh hoàn toàn, Diller bắt đầu dùng Demerol và không cố khai thác anh.
Diller chỉ hỏi có cần báo cho ai không, và nói thêm rằng anh đã qua lúc hiểm
nghèo: cánh tay và xương sườn đã được xếp lại chính xác, nhưng một bên mặt anh
còn nát bét và anh nên phẫu thuật khi nào về nhà, dù ở bất cứ đâu. Diller lấy
cái gương nhỏ trên tường và chỉ cho anh những chỗ sưng phồng và lún, ngoài việc
vết thương kéo một mắt anh xuống cho đến lúc bị lác hẳn. Sau đó bác sĩ nói thêm
rằng vài hôm nữa sẽ có một cảnh sát liên bang ghé đến nhưng anh đừng nói gì,
nên lấy cớ là vẫn bị chấn thương.
Rồi một thanh niên vào định cạo mặt cho anh, nhưng anh từ
chối. Anh ta xưng tên là Antonio rồi tiến hành lau rửa vết thương cho Cochran
theo cái kiểu suồng sã như chọc tức. Antonio nói nếu anh cần thuốc lá hoặc thứ
gì, cứ đưa tiền cho anh ta mà lấy, cho đến khi có tiền của Nhà nước. Antonio cười
phá lên và xoay cánh cửa nói rằng họ chưa bao giờ có một bệnh nhân đến mà lại
trần truồng lạ lùng đến thế, như thể anh đã bị đánh đập và lột da trong bụi cây
vậy. Cochran cho Antonio là quá nhiệt tình, đủ lôi cuốn. Sau đó anh bối rối vì
không thể nhớ ra anh có hút thuốc hay không.
- Tôi không thể nhớ mình có hút thuốc không - Anh nói.
- Thế thì đừng hút. Nó làm miệng anh có mùi kinh lắm. Tôi
thích uống rượu nhưng chỉ uống lúc không làm việc. Tôi có thể lén cho anh tuý
luý nhưng ở đây thì bị cấm - Antonio nháy mắt và bỏ đi.
Lúc Antonio đi rồi, Cochran cố ra khỏi giường và rón rén
lê đến bên cửa sổ. Ngực anh nhức nhối và khuôn bó trên cánh tay trái làm anh mất
thăng bằng. Đến cửa sổ, anh choáng váng, phải nắm chặt lấy bậu cửa và nhìn chằm
chặp xuống bàn chân trần. Anh thích những thứ nhìn thấy ở đằng sau đồn điền: một
thế giới xanh tươi, một vườn rau rộng lớn có nhiều luống, giữa các luống có
rãnh tưới tiêu, và xa hơn là vài chuồng ngựa với bãi quây gia súc, chứa một con
Percheron lớn và ba con ngựa trông tiều tuỵ, mấy con cừu, một chuồng rộng nuôi
lợn và vài con dê sữa. Một bà lão già nhất trên đời lướt từ đằng sau bụi cây ra
và nhìn chằm chằm vào anh qua cửa sổ, cách chưa đầy ba chục centimét. Anh hoàn
toàn bình thản và bà lão cũng thế, rồi bà cười và anh cười đáp lại, sau đó bà
ta mất dạng.
Trở lại giường anh thấy đói và kiểm tra nhiều vết kim đâm
trên cánh tay phải cho thấy anh đã được nuôi bằng cách truyền dịch. Anh cảm thấy
bụng trống rỗng như quả trứng Phục sinh bị rút ruột. Anh ngủ rất sâu nhưng giật
nảy mình tỉnh dậy vì mơ thấy đang ngồi trên cát và cười cạnh chiếc ô tô của
anh, ngước nhìn một phụ nữ xinh đẹp, trần truồng có khuôn miệng chảy máu khủng
khiếp. Anh hét to lên cho đến lúc mắt anh lồi ra và tỉnh hẳn trong căn phòng mờ
tối. Diller, Mauro và Antonio chạy đến. Diller vẫn đang nhai thức ăn và xách
cái túi.
Cochran thấy mình nói:
- Tôi xin lỗi đã làm phiền mọi người. Chỉ là một giấc mơ
thôi.
Diller tiêm cho anh một mũi dưới da và Cochran nói:
- Tôi muốn ăn chút gì đó.
Antonio đi ra và Diller mỉm cười. Người này thật lịch thiệp,
ông nghĩ, và trở lại với bữa tối của ông. Mauro trong bộ quần áo làm việc màu
xanh nhạt, ria mép và mí mắt trĩu xuống, nhìn anh chăm chú.
- Tôi đã tìm thấy anh và tưởng anh chết rồi - Anh ta nói
rồi ngừng lại - Tôi chúc anh an toàn, thoát khỏi tay kẻ thù và cuộc báo oán, nếu
đấy là điều anh mong ước.
Antonio bưng một khay đi qua Mauro đang ra cửa. Trên khay
để bát súp, một cốc sữa dê và vài cái bánh ngô nhân thịt.
- Anh phải bắt đầu ăn nhẹ. Diện mạo của anh cho thấy anh
là người hiểu biết, anh đừng dại mà nghe những lời bịp bợm của anh chàng da đỏ
Mauro ấy. Đôi khi tôi cứ nghĩ anh ta và đứa con gái là ma quỷ, dù họ vẫn tử tế.
Bao giờ nhận được tiền, anh có thể cho anh ta vài đôla thưởng công đã tìm thấy
anh. Có Chúa biết tôi chỉ là một người nghèo và cô đơn, đã hiến mình cho khoa học
và anh không cần nghe lời tôi, nhưng nếu anh muốn mượn radio của tôi hoặc cần
nhờ tôi viết thư vì tiếng Anh của tôi hoàn hảo, hoặc muốn đọc cho anh nghe thì
cứ bảo tôi. Tôi hy vọng có ngày được chuyển đến Los Angeles. Anh từ đâu đến vậy?
- Indiana. Tôi là người Indiana.
Antonio lúng túng một lát rồi tuyên bố chắc chắn:
- Tôi hiểu rõ vùng ấy. Nó ở gần Georgia và đầy rẫy những
cuộc xung đột. Tốt nhất là anh nên chuyển đến Los Angeles. Bây giờ thì anh ăn
và ngủ đi, nếu mai sẽ bắt đầu đi dạo hoặc thân hình đẹp đẽ của anh sẽ hết vẻ nhếch
nhác.
Antonio xếp lại gối sau lưng cho anh và ra ngoài. Cochran
ăn vài miếng rồi cảm thấy buồn ngủ rũ, đánh đổ cả bát súp. Cô con gái của Mauro
vào bưng khay và lau dọn, thay đồ trải giường. Cochran tỉnh dậy kinh hoàng, tưởng
nhìn thấy Miryea là một thiếu nữ.
Anh ngồi trong hàng hiên suốt hai tuần, ngắm làn bụi
tháng Tám nâu nâu cuộn lên thành đám quanh những bàn chân đang đi. Râu anh mọc
dài, và đến cuối tháng Diller cầm một cái đục và cái vồ đập chỗ bột bó trên
cánh tay anh, trông nó ảm đạm và xanh xao. Trời ẩm thấp và xương sườn anh vẫn
đau. Anh lễ độ và quá ư xa cách. Viên đại uý Liên bang đã đến và đi, phát cho
anh một tờ quảng cáo du lịch, nhỡ anh muốn làm gì đó tuy anh vẫn im lặng, mơ hồ
và xa cách. Cuối cùng, anh viết một bức thư cho con gái, anh vẫn thường viết mỗi
tuần một lần. Rồi một hôm, anh giải thích cơ cấu bấm giờ trong chiếc Powerwagon
của Diller đã hỏng, anh sẽ sửa lại nếu có Mauro giúp. Diller giữ vẻ xa cách lịch
sự và suốt bữa tối ông tính cả Cochran trong lời cầu nguyện. Họ nói loanh quanh
về lịch sử Mexico và Cozumel là nơi cả hai đã đến thăm. Diller chẳng có gì lo
ngại, ông thích sự am hiểu lịch sử của người đàn ông bị tra tấn bằng những ngón
đòn ông đã quá quen thuộc. Vả lại, Cochran bắt đầu có ích cho ông, anh dự những
buổi lễ trong ngôi nhà thờ bằng xi măng thô ráp, hầu như mọi người đều thân thiện
và biết điều, miễn là không động chạm đến ai
Đầu tháng Chín, Cochran bắt đầu làm việc chăm chỉ trong
vườn. Anh dọn sạch phân trong chuồng và cưỡi lên lưng rộng của con Percheron
vòng quanh thung lũng, con ngựa này hơn xa những con ngựa ốm yếu mà Mauro cưỡi.
Mấy năm trước, khi con Percheron từ thành phố quê hương Diller đến hội truyền
giáo như một món quà vô dụng, Mauro đã quyết luyện nó thành ngựa cưỡi vì họ
không có yên cương và cũng không có ruộng cho nó làm lụng. Nhưng lúc Mauro cưỡi,
con ngựa theo lệnh anh ta răm rắp và hiện giờ mỗi khi có việc lên núi là nơi xe
tải khó tới, thân hình to lớn của Diller lại cưỡi lên lưng nó. Mauro mến
Cochran, anh giúp anh ta giết mổ bò đực non, hai con cừu và một con dê nhỏ, rồi
quay rất khéo, đúng lúc cảnh sát liên bang đến lần nữa cùng một quý ông là bạn
của Cochran.
Người đó chính là viên phi công hãng Aeromexico, anh ta
cười nhẹ nhõm khi nhìn thấy Cochran. Cochran vốn là người lịch sự, nhưng thấy
ông bạn thân có thể làm gián đoạn kế hoạch bắt đầu hình thành trong anh lúc chạy
và leo núi. Cuộc chạy của anh làm mọi người buồn cười vì tháng Chín vẫn còn
nóng, tuy một ông già sắp chết vì ung thư (ông lão lận ma tuý buôn lậu vào
trong người) bảo Cochran rằng chạy có thể biến anh thành một con sư tử núi. Cuộc
sống sẽ tốt hơn nếu không ai là nạn nhân của ai. Thật là một niềm vui chính
đáng nếu được bắn vào kẻ thù của anh.
Cochran và anh bạn ở Aeromexico ngồi trong phòng ăn, im lặng
căng thẳng uống cà hê. Antonio nhìn trộm vị khách quan trọng. Vị khách đợi bạn
hết cơn im lặng.
- Trông cậu không giống như chơi tennis quá nhiều - Anh
ta mỉm cười, nhưng sững lại vì vẻ khó hiểu của Cochran. Anh giở bài khác - Cô ấy
mất rồi à?
- Tôi không biết. Có khi thế. Tôi muốn tìm cho ra.
- Cậu sẽ cầm chắc cái chết. Bác sĩ bảo cậu đã suýt chết.
Có lẽ tôi hiểu cậu muốn làm gì. Nhưng tôi mong cậu trở về Tucson.
- Không phải lúc này.
Viên phi công thở dài và bối rối nhìn khắp căn phòng. Anh
chợt thấy mình viên vông tuy nhận biết nỗi đau đớn và số phận bất hạnh của bạn.
Anh đoán Tibey chẳng tử tế gì với Miryea và báo thù là việc không thể tránh khỏi.
- OK. Cậu phải tìm cho ra. Nhưng xin cậu hãy nghe vài lời
khuyên đây. Bây giờ trong cậu như một peóne, một peóne lập dị. Cứ để thế này cậu
sẽ bị chú ý ngay lập tức. Cậu lấy số tiền tôi mang đến đây, nhỡ lúc cần cho biện
pháp mềm hơn.
Antonio mang thêm cà phê và cắt ngang câu chuyện và họ
rơi vào im lặng. Lúc Antonio đi rồi, viên phi công nói tiếp rằng anh trai anh
ta giữ một chức vụ cao trong chính quyền thành phố Mexico và có thể tin cậy được.
Chính vì thế mà anh tìm Cochran bằng được. Tốt nhất là đừng ở hội truyền giáo
thêm nữa, vì Tibey có thể thay đổi ý định và có thể dễ dàng lần theo dấu vết
anh. Viên phi công dặn một số điểm nhận dạng người anh, ghi tên và số điện thoại
của anh ta vào phong bì đựng tiền. Rồi anh kéo một ống quần lên và tụt chiếc
giày ống xuống nửa chừng, để lộ một khẩu Beretta nhỏ, cỡ 22 ly để trong bao.
Anh đưa cho Cochran.
- Cái này để cho kẻ nào sấn đến đúng tầm. Nếu cậu sống
sót lần này, cậu phải sửa sang bộ mặt đi.
Anh đứng dậy và họ ôm lấy nhau. Cochran tiễn bạn ra xe
jeep nhưng cổ anh nghẹn tắc và không thể thốt nên lời.
Chiều hôm ấy anh làm hai chiếc phong bì, mỗi cái đựng năm
trăm đôla đổi ra peso cho Diller và Mauro, giữ một ngàn đôla cho mình, nhét phần
lớn vào sau khẩu súng lục áp vào bắp chân. Diller bị thuyết phục và sửa soạn một
túi du lịch đựng quần áo peóne cũ, cuốn kinh thánh bằng tiếng Tây Ban Nha và lọ
thuốc giảm đau. Ông xin lỗi vì chỗ quần áo nghèo nàn thực ra là đồ thừa của những
người đã chết. Họ nói đùa về việc này, Diller nói ông sẽ buồn nhớ và sẽ đọc
kinh cầu nguyện cho anh. Ông không tọc mạch hỏi kế hoạch của Cochran. Ông oang
oang ra lệnh dọn một bữa thịnh soạn mừng bệnh nhân của ông đã hồi phục và sắp
lên đường, ông ăn nhiều và hết sức ngon miệng.
Trước bữa ăn, Cochran và Mauro ngồi trong hàng hiên ngắm
bóng chiều lướt xuống núi. Rất khó làm Mauro chịu nhận một số tiền lớn như thế.
Mauro tặng anh con dao cán nạm ngọc, anh ta nói đây là con dao may mắn, sắc như
dao cạo và sẽ cắt ngọt "hòn bi" của kẻ nào đã đánh đập và vứt anh cho
chết. Cochran nói nếu có ai đến lùng kiếm anh, nhờ Mauro nhắn cho anh qua một
quý ông ở thành phố Mexico. Mauro muốn đi cùng và Cochran mất một lúc mới thuyết
phục Mauro là không thể được.
Đến bữa tối, Cochran chọn ngồi với Mauro, con gái và bà mẹ
anh ta, anh thấy cảm xúc bao trùm quãng đời mới của anh làm quãng đời cũ có vẻ
như đã cách xa rất lâu, tẻ nhạt và buồn chán như một bài báo cũ, trừ con gái
anh. Anh đã thận trọng đến mức khi viết cho con gái, anh không để địa chỉ gửi
trả lại. Giờ đây anh ngồi bên cái bàn trĩu nặng đồ ăn với một tá người chuyện gẫu
bằng tiếng Tây Ban Nha, chốc chốc lại hát theo đài mà Diller cho mở. Dưới gầm
bàn, Cochran và Mauro rót mescal (1), cốc rượu đầu tiên của Cochran sau hai
tháng trời. Diller bắt nhịp cho mọi người hát và sự im lặng kỳ quái bao trùm
sau khi bà mẹ Mauro hát bài hát ru của người da đỏ bằng thứ tiếng không ai nhận
ra. Sau đó Antonio hát một bài hát vui ngắn và ông bệnh nhân ung thư già hăng
hái dịch là bài hát chào mừng mùa xuân, một mùa xuân sáu tháng nữa mới tới và
ai cũng biết ông lão sẽ không thấy được nữa. Ông già suýt xỉu vì gắng sức và
Mauro đổ cho ông lão một cốc mescal, làm ông tỉnh lại tức thì. Mauro không hát,
thay vào đó anh ta đọc thuộc lòng bản dịch bài Ngọn cờ Mỹ anh ta đã học được ở
đâu đó, thành ra rất buồn cười. Đến lượt Cochran, anh đứng lên hát một bài dân
ca Guadalajaran mà Miryea hát rất hay, nhưng đến nửa chừng anh nghẹn ngào, mắt
đầy lệ và anh chạy lao ra khỏi phòng.
Thật may mắn cho anh, trong tình trạng say mescal khác
thường, anh không biết chính xác thân phận người anh yêu quý, và đến rạng đông
sẽ bắt đầu cuộc tìm kiếm. Sự thôi thúc báo thù trong lòng một số người nào đó ở
biên giới phía nam làm những tay Sicily gan góc nhất cũng phải há miệng kinh ngạc.
Tibey Baldssaro Medez sinh trưởng ở Culiacán, cha mẹ anh
ta nghèo khổ đến cùng cực. Mẹ anh ta có nửa dòng máu Mescalero Apache, một bộ lạc
không có tiếng tăm vì địa vị hèn mọn và khiêm nhường. Mười bốn tuổi, anh ta đã
phát triển đầy đủ về vóc dáng, trí óc nhậy bén, kiêu ngạo lạ lùng và làm nghề dắt
gái ở Mazatlán. Dần dà, anh ta bỏ nghề ma cô và chuyển sang vận chuyển ma tuý ở
Culiacán. Hiện giờ anh ta chỉ dính dáng vòng ngoài tỏng dây vận chuyển ma tuý
như một quản gia, nhưng nắm giữ cả trục bất động sản ở thành phố Mexico, khách
sạn, nhà nghỉ ở Venezuela, Rio và Mérida, có một danh mục đầu tư khổng lồ tầm cỡ
quốc tế. Một trong các con trai anh ta là bác sĩ và đứa khác là luật sư. Anh ta
đã lấy hai vợ là người bản xứ và đều bỏ rơi khi đã phất. Miryea là một vật
trưng bày cần thiết, một phụ nữ anh ta đã cố giành được sau nhiều năm, và là
cánh cửa cho anh ta bước vào xã hội thượng lưu Mexico, cái xã hội đã hoàn toàn
phủ nhận anh ta. Miryea là cơ may lớn của anh ta, chỉ một sớm một chiều anh ta
đã được rửa sạch hoàn toàn về mặt xã hội, đó không phải là sự kiện hiếm thấy trên
đời.
Sự phản bội của Cochran, người mà anh ta đã hy vọng làm bạn
là một đòn nặng đối với anh ta. Thậm chí anh ta đã bỏ qua cho vài cuộc gặp gỡ
giấu giếm đầu tiên mà Cochran và Miryea ngây thơ tưởng là bí mật. Tibey biết và
hiểu sự thất thường trong đời sống tình cảm của một người đàn bà, mà Cochran lại
là người cực kỳ hấp dẫn. Tibey đã bắn tin cảnh cáo qua viên phi công hãng
Aeromexico bạn của Cochran, và một bông hồng trắng trên hộp champagne, tiền và
vé đi Paris. Sự cảnh cáo sao lại phải tốn kém đến thế? Đường dây nghe trộm điện
thoại của nàng đã xúc phạm Tibey và lòng anh ta tràn đầy nỗi nhục. Tibey thất vọng
khi nghe cuốn băng nàng kể với chị gái ở New York về tình yêu mới mẻ, lớn lao
cuối cùng của đời nàng, về người đã đề nghị nàng bỏ trốn đến Seville và có lẽ
nàng sẽ đi. Lúc đó Tibey nổi điên lên, rồi dồn sức đuổi theo cặp tình nhân vào
căn nhà gỗ. Anh ta hận việc đó vì biết trong giới của anh ta, cái tiếng anh chồng
bị mọc sừng sẽ lan đến Culiacán, đến thành phố Mexico rồi quay lại Tucson. Ý
nghĩ ấy nung đốt cơn thịnh nộ của anh ta và nhem nhóm lại bản chất ghê tởm đàn
bà của tên ma cô trong người anh ta. Tibey sẽ không để bất cứ ai biết anh ta đột
nhiên cảm thấy già sọm, và mất nàng có nghĩa là mất mọi thứ với anh ta. Anh ta
sẽ dạy cho nàng một bài học và làm nhẹ cái tiếng nhục nhã bị cắm sừng của mình.
Tibey làm tình với nàng lần cuối vào ngày trước khi nàng ra đi rồi vào phòng ngủ
riêng, anh ta bật khóc. Tibey bỗng thấy đố kỵ kiểu làm ăn bất chính thô thiển của
mình so với cách chơi gái, tận hưởng cuộc sống, cách chúng bắn hạ máy bay chính
phủ đến do thám marijuana và vụ thu hoạch thuốc phiện của bọn chúng. Tibey ung
dung gọi điện cho El Cociloco, một kẻ ám sát bỉ ổi, tuy sáng dạ và ra vẻ đàng
hoàng, nhưng đấy là việc cần thiết cho một gã mọc sừng nhúng tay vào tội ác để
trả thù riêng. Tibey uống liên miên chuẩn bị cho một cơn thịnh nộ, vì thực ra
anh ta chán tất cả và chỉ muốn bay đến Paris, đến Plaza Athénée chẳng hạn, ăn
nhậu và quên hết mọi sự. Nhưng như thế là mất toi sự kiêu hãnh, và anh ta sẽ chẳng
còn lại gì ngoài tiền của.
Khi chiếc limousine đã rời cảnh tàn bạo ở căn nhà gỗ,
Tibey cố xoá sự ân hận và nỗi kinh hoàng vừa qua cho đến bốn giờ sau, đến
Durango mới được nửa đường anh ta gần như nói năng lảm nhảm. Tibey bảo tài xế đỗ
lại một lát và trong ánh sáng ban mai trần trụi, kiểm tra xem Miryea đã ngấm
thuốc an thần chưa và tát mạnh vào bộ mặt đẫm máu của nàng. Một phần là trò
đóng kịch - những tên đàn ông trong xe sẽ lan truyền câu chuyện về cuộc trả thù
của anh ta - anh ta hét lên và huyênh hoang:
- Ôi tình yêu của ta, ta muốn mi đẻ cho ta những đứa con
trai, vậy mà mi, con đĩ bất trung, lật lọng khốn khiếp, con chó cái vô ơn bạc
nghĩa kia, mi muốn đ... ta sẽ đ... năm chục lần một ngày trước khi mi chết.
Và thế là diễn ra cảnh trả thù khủng khiếp, vì Tibey là bậc
thầy trong thuật báo thù: suốt ba ngày Miryea ngồi trên một cái ghế cao, bị ngồi
thuốc amphetamine trong khi nửa tá rắn đuôi chuông bò lúc nhúc xung quanh trên
sàn. Mỗi khi sắp trượt xuống sàn, nàng lại bị tăng liền ma tuý lên trong suốt
hai tuần lễ, rồi một người thợ làm tóc đến trang điểm cho nàng và nàng bị tống
đến một nhà chứa thô bỉ nhất ở Durango, khách hàng là những tay chăn bò, thợ mỏ,
những kẻ hạ lưu mới lần đến. Đôi môi và tai bị rách của nàng được một bác sĩ
thú y khâu lại và bắt đầu lành, những cái nghề nhơ nhuốc tàn phá vẻ đẹp hoàn mỹ
của nàng. Dù vậy, nàng vẫn là gái làng chơi được ưa thích nhất trong nhà, phần
lớn vì ai cũng biết chuyện và bọn đàn ông hiểu sự bất trung của đàn bà, cả thực
sự thực lẫn tưởng tượng, và thân hình thon gầy, xanh xao của nàng trên tấm khăn
trải giường vấy bẩn kinh thích thú tính của bọn chúng lên đến cùng cực. Song đến
cuối tháng, mụ chủ chứa tham lam đã cắt khoản ma tuý của nàng, làm nàng phục hồi
ý thức và đã rút khéo con dao trong túi một tên đàn ông rồi đâm vào cổ hắn lúc
hắn đang hành hạ nàng. Tên đó là đốc công trong một đồn điền lớn và việc bất ngờ
xảy ra đã gây nên chuyện tai tiếng ầm ĩ. Tibey mủi lòng và cho Miryea vào một
dưỡng trí viện, do các bà xơ cai quản đám đàn bà và các cô gái mất trí. Hàng
năm Tibey sẽ quyên góp một khoản tiền lớn với điều kiện nàng cứ bị giữ ở đấy. Dạo
này, Tibey trở lại nông trại nhỏ của anh ta gần Tepehuanes, phía bắc Durango.
Trĩu nặng cảm giác thương thân, anh ta phá trinh một số cô gái péone trong những
cơn cuồng dâm, xen kẽ với những thời kỳ trầm cảm nặng nề, anh ta muốn đến nhà
thổ, rồi sau đó lại đến tu viện và cố đòi lại niềm hạnh phúc đã từng có thời là
của anh ta, cái hạnh phúc sao mà ngắn ngủi đến thế.
Mauro thức giấc trước rạng đông, mặc quần áo rồi chậm chạp
xuống sườn núi đến hội truyền giáo. Anh ta sẽ lái xe đưa người bạn và ân nhân
bí ẩn của anh ta, người không ai biết tên trừ các cảnh sát liên bang, đến
Hermosillo để lên xe buýt hoặc máy bay, anh ta cũng không rõ nữa. Lúc Mauro đến
phòng Cochran liền với chuồng cừu, Cochran đã ăn mặc chỉnh tề, hành lý xong
xuôi và đang ngồi ở mép giường như trong trạng thái thôi miên. Mauro ngồi xuống
ghế và khoanh tay nghĩ ngợi; anh ta hiểu tính nghiêm trọng trong nhiệm vụ của
người này, anh ta muốn đi cùng để bảo vệ vì người bạn mới này có vẻ là người mơ
mộng, khó mà giải quyết được những việc giết chóc khắc nghiệt. Cánh cửa bật mở,
Cochran đứng phắt dậy, giơ con dao quà tặng ra nhưng chỉ là mẹ của Mauro mang
cà phê và pan dulce cho họ. Cochran xin lỗi vì sự đón tiếp của anh và nói anh
không nhận ra tiếng bước chân của người đã làm cho Mauro hạnh phúc, một người
ghi nhớ tiếng bước chân không thể là người quá mơ mộng được.
Mất nửa ngày, chiếc Powerwagon già nua mới đưa họ đến
Hermosillo. Ra đến đường cái, Cochran sửng sốt thấy những chiếc ô tô đầu tiên
sau hai tháng, và chùn lại khi thấy một chiếc ô tô mới mang biển Indiana phóng
nhanh qua. Chiếc xe tải quá ồn nên không nói chuyện được và Cochran nghĩ vẩn vơ
rằng anh sẽ chẳng thích ngồi cạnh Mauro như một con chó vùng Alaska, chẳng bao
giờ sủa trước khi cắn. Mauro vừa im lìm vừa nguy hiểm. Cochran đủ thông minh để
hiểu rõ rằng sự đơn giản và quả quyết kia nằm ngoài tầm của một người đàn ông
văn minh thực sự. Chí ít thì anh cũng chưa gặp người nào như thế trong đời và
đâm ngờ không biết có người nào không. Một Chủ nhật lúc cưỡi con Percheron lên
căn nhà nhỏ bằng gạch sống của Mauro, anh cảm thấy bắt đầu hiểu người này; trên
tủ đựng quần áo có ban thờ người vợ quá cố của Mauro, bên dưới tấm ảnh cưới màu
sắc loè loẹt là một đống những tấm da sư tử, một cây thánh giá bằng bạc giữa một
đống sọ sư tử đã đã chuội trắng và một sọ sói rừng, có một bình cắm hoa tươi,
con gái Mauro thay hoa hàng ngày, rõ là tưởng nhớ mẹ nó. Bình hoa đặt trên một
cuốn Kinh Thánh bằng tiếng Tây Ban Nha mà Diller cho, chưa dùng tới bao giờ.
Mauro không thể đọc được.
Lúc này trong chiếc xe tải, Cochran đủ sáng suốt để hiểu
anh đã đúng về việc định làm: anh có ít ý nghĩ, chỉ một mục đích; ý nghĩ của
anh ít đến mức không cản trở gì đến nhiệm vụ rất rõ ràng của anh: giết Tibey và
đưa Miryea trở về nếu nàng còn sống. Đầu óc anh trống rỗng đến mức thế gian như
bắt đầu theo một cách kỳ cục, làm anh hài lòng vì chẳng có gì quấy rầy vẻ đẹp của
thung lũng hoặc sự xấu xa ghê tởm của cuộc đời tạm bợ anh đang bước vào.
Lúc họ đến ngoại ô Hermosillo, anh bảo Mauro anh muốn ăn
chút gì rồi tìm chỗ bắt xe buýt nhưng không vào trong thành phố, vì có cơ bị nhận
ra. Sự tin cậy bứt rứt của Mauro vào người bạn càng vững chắc thêm.
Ở tận đầu kia của Hermosillo, họ tìm được một quán ăn bên
đường, bãi đầy xe làm bến đỗ cho các xe buýt chạy về hướng nam. Trong sân cạnh
bãi đỗ xe, họ giúp một người Texas đang dắt một con ngựa giống bất kham.
Cochran nhận ra anh chàng Texas này là kỵ sĩ loại một nhưng anh ta ho dữ dội và
có vẻ ốm yếu. Mauro làm quen với người Texas nọ trong lúc Cochran vỗ về con ngựa
và đưa nó trở vào xe moóc. Người Texas bắt đầu rủa bằng tiếng Tây Ban Nha lúc
anh ta đi lảo đảo, rồi dựa vào chiếc xe tải.
- Cái con chó đẻ này làm tôi khốn khổ nhưng mẹ kiếp, tôi
nói với các anh là không được bình tĩnh lắm, hoặc tôi quẳng nó đi hay táng cho
nó một cú đá cho cái của bú c... đắt tiền ấy, vì nó đã được mua được bán hay là
tôi cho nó phát đạn vào giữa hai con mắt khốn nạn của nó. Nhưng tôi muốn sửa
sang hình dáng nó cho tử tế, nên tôi sẽ cho nó uống thuốc kích thích để họ tưởng
là vớ được một thằng đĩ đực ra trò, rồi tôi sẽ xéo ra khỏi cái đất nước khốn
khiếp này, nó chỉ cho tôi những thứ cứt đái lúc tôi vượt qua cái biên giới khốn
nạn ấy
Rồi anh ta chìa tay ra bắt tay Mauro và Cochran, rồi họ
nói chuyện về những rắc rối trong việc chuyên chở ngựa giống. Cochran hiểu cái
ra hiệu kỳ quặc của Mauro cho thấy anh chàng này thật ngây thơ. Anh chàng Texas
liếc nhìn ngờ vực khi Cochran nói tiếng Anh thật hoàn hảo.
- Này ông bạn tôi tưởng ông là một campesino chính cống,
anh hiểu không, một peóne ấy mà. Anh cũng bị những chuyện rắc rối ở đây phải
không? Đi ăn với tôi đi. Chúng ta hãy uống vài cốc.
Họ đi vào quán ăn. Mauro uống bia và nói đến lúc anh ta
phải đi vì đường về xa lắm. Anh chàng Texas cứ nài Mauro ở lại nhưng thật tệ nếu
bỏ nhiệm vụ, vì không thể vắng xe cứu thương qua đêm. Cochran ra ngoài để kín
đáo chào biệt - tiếng ồn ào trong quán làm anh bực bội - còn Mauro có vẻ lúng
túng. Anh ta đưa cho Cochran một cái túi nhỏ.
- Mẹ tôi bảo anh đeo cái này. Bà nói nó sẽ giúp anh tiêu
diệt kẻ thù. Tôi biết anh là dân trí thức nhưng đeo vào trong áo sơ mi không
sao đâu.
Cochran mở cái túi. Đó là một chuỗi vòng bằng răng chó
sói. Thâm tâm anh không mảy may tin vào những chuyện mê tín dị đoan, nhưng anh
cảm kích vì hành động này.
- Anh nói giúp với bà là tôi rất sung sướng đeo chuỗi
vòng này. Tôi chắc nó sẽ giúp tôi.
Trở vào quán, anh chàng Texas đang với những kẻ mê bia. Đồ
ăn mang tới nhưng gã Texas chỉ nhìn chế giễu. Anh ta nói huyên thuyên về việc
kiếm ngựa giống ở Arizona để bán ở Torreón. Anh ta được mười phần trăm nhờ mánh
lới giao dịch giữa người gây giống và người bán ngựa.
- Nói thật với pardo, tôi chán cái mánh kiếm tiền khốn khiếp
này rồi. Tôi có cả một bầy ngựa cái trong một trại chăn nuôi nhỏ ở Van Horn,
nhưng vợ tôi đã bỏ tôi thế là tôi tiêu hết đàn ngựa cái đẹp đẽ ấy vào những bữa
chè chén tuý luý và đàn bà. Hôm nào anh phải ghé lại vì lúc nào cũng có hai con
hươu trong tủ lạnh và mấy cô ả dễ thương ghé qua. Mà này, trông anh đạo mạo thế
anh có phải là kẻ nghiện ma tuý không đấy?
- Không. Tôi đang chạy trốn IRS - Cochran thích câu bịa của
mình.
- Mẹ chúng nó. Đừng trả một xu. Tôi làm việc vì tiền và
chúng nó không biết tôi còn sống, anh bạn ạ. Nếu chúng vào bãi của anh chỉ để
săn bọn đồng tính - Anh ta ngừng lại và uống một ngụm lớn. Anh khai báo, thế là
anh vào tù và cái bọn rồ dại ấy có trách nhiệm đè anh ra mà "tỉn". Chẳng
bao giờ chúng để cho anh sống sót. Mà anh định đi đâu vậy?
- Xuống Durango, tôi nghĩ thế...
- Cứt, sao anh không nói. Anh đến gần chỗ tôi đấy. Cho
anh đi nhờ miễn phí. Anh không muốn đi xe buýt cũng phải, ở đấy ai cũng tè lên
ghế.
Anh chàng Texas gọi một cốc và Cochran chợt muốn nhảy điệu
simmi, anh sung sướng vì được lái xe là việc anh rất cừ. Trông anh chàng Texas
khoảng ngoài năm mươi tuổi nhưng khó mà nói chắc, rõ ràng anh ta sống vất vả.
Anh ta có vẻ vênh vang tự mãn với cái thắt lưng bằng vỏ ốc và đôi giày ống bằng
da trăn mác Tony Lama. Anh ta nháy mắt và kéo ve áo khoác vải bò lên, để lộ một
khẩu 44 xanh lạnh lẽo.
- Thằng nào mon men đến cũng có thể mất chim. Tôi có thể
bắn bay chim của một thằng đang chạy cách trăm mét, có khi hơn.
Cochran ăn ngon lành nhưng tự hạn chế chỉ uống hai cốc
bia, anh nghĩ đến làn sóng tình cảm uỷ mị do uống với Mauro. Anh ngước lên khi
nghe thấy một giọng nói oang oang bên cửa và tim anh nảy lên, anh rùng mình và
toàn thân lạnh toát, ẩm ướt. Đó chính là tên khổng lồ trong đêm ở căn nhà gỗ,
ăn mặc lịch sự đi cùng hai tên vệ sĩ lôi thôi lếch thếch. Cochran theo dõi lúc
cái nhìn của tên đó quét khắp quán ăn, lướt qua anh nhưng hắn không nhận ra.
- Anh nhìn thấy ma hay sao thế? - Anh chàng Texas nhìn
Cochran rồi nhìn tên khổng lồ trở lại phòng vệ sinh nam giới trong lúc mấy tên
vệ sĩ ngồi ở bàn và bắt đầu tán tỉnh cô hầu.
- Thằng chó đẻ khổng lồ.
- Xin anh ra xe đi. Lát nữa tôi sẽ ra với anh - Giọng
Cochran lạnh lùng và bình tĩnh, gã Texas gật đầu tỉnh táo, đứng lên và thảy một
trăm peso lên bàn.
- Tôi đợi đấy, anh bạn. Cẩn thận nhé.
Cochran đi nhanh vào phòng vệ sinh nam, mắt nhìn xuống và
đi nghiêng ngả như một peóne say rượu. Đến bên cửa, anh giấu con dao của Mauro
trong lòng bàn tay và thở mạnh. Tên đàn ông to lớn đang đứng soi gương chải tóc
và liếc nhìn Cochran có vẻ là một tên nghèo khổ. Cochran vã nước lên mặt, té cả
vào tên khổng lồ, hắn quay sang ngay lập tức định nện cho cái thằng peóne ngu
ngốc. Cochran khom người như nhận đòn và đưa lưỡi dao ngược lên, anh cầm cán
dao bằng cả hai tay, rạch một nhát mạnh hết sức từ tinh hoàn của hắn ngược lên
xương ức, rồi xoay con dao và ấn qua cổ tên đàn ông mở phanh đến tận xương cổ.
Lúc tên khổng lồ lảo đảo anh đá mạnh, mở cửa một phòng vệ sinh và đẩy hắn đổ sầm
lên ghế. Cochran liếc vào gương lau sạch máu, cười ngạo nghễ rồi bỏ đi không vội
vã.
Anh chàng Texas đã đưa cái xe tải cùng moóc chứa ngựa ra
trước quán rượu và mỉm cười lúc Cochran bước ra, đu đưa cái túi du lịch của
Diller vẻ nhút nhát.
- Tôi lúc nào cũng thích người chiến thắng - Gã Texas nói
lúc Cochran lên xe.
- Dù người đó không thân thiết - Anh dựa lưng vào ghế và
chọn các băng lúc anh chàng Texas cho xe lượn vào đường cái. Anh ta muốn đến
Culicán ban đêm nhưng ở Ciudad Obregón có nhà thổ tốt nhất trên thế giới, và
anh ta thấy ngứa ngáy phủ tạng.
Đến giữa buổi chiều, Cochran lái thay trong lúc người
Texas ngủ, còn anh đã chợp mắt ba giờ liền sau bữa trưa. Anh đỗ ở Los Mochis nạp
gas và anh chàng Texas tỉnh giấc, ho dữ dội và há hốc miệng để thở. Anh ta kéo
toang cái túi, dốc ra năm, sáu viên thuốc rồi uống bằng một chai bia trong
thùng lạnh. Anh ta ôm đầu một lúc lâu và Cochran hoảng hốt lúc đưa xe trở lại
đường cái. Anh lo bị truy đuổi, vì biết cảnh sát địa phương sẽ cho vụ giết người
là vụ báo thù của một băng nhóm ma tuý và một chiếc xe tải biển số Texas chở ngựa
giống là một triển vọng bất ngờ. Anh chàng Texas ngửa người trên ghế cố hít thở
sâu và mỉm cười:
- Lạy Chúa tôi, anh đã lái qua Ciudad Obregón và tôi đã
nghĩ đến việc dừng lại vì một bộ mông ngon lành. Anh sẽ chẳng bao giờ biết đây
là lần cuối cùng và biết đâu tôi chẳng bị treo lủng lẳng lên một sợi dây ngắn
ngủi. - Anh ta ngừng lời, lắng nghe băng Willie Nelsson trong máy - Tôi nghe thằng
cha ấy hát từ nhiều năm trước ở San Antonio, trông hắn như một thằng hippi ti
tiện, nhưng lại hát cực hay.
- Tôi mong là anh thấy dễ chịu.
- Anh bạn ơi, nếu tôi có thể cho anh một danh sách những
việc sai lầm thì đó là việc cằn nhằn một người nào đó. Ở bệnh viện VA (1), vì
tôi là một cựu chiến binh có thiện ý nên người ta bảo không hiểu vì sao anh còn
sống và tôi nói tôi quá ốm để chết từ nhiều năm rồi. Tôi sắp chết, thật đấy. Họ
muốn cái thân xác tôi, còn tôi thì nói tôi ỉa vào các anh, tôi mong sẽ được
chôn cạnh mẹ tôi ở Van Horn.
Đêm hôm ấy họ nghỉ lại một khách sạn ven biển, bên ngoài
Mazatlán.
Khách sạn đắt vừa phải và anh chàng Texas cho Cochran mượn
ít quần áo ấm, anh ta nói sẽ đi xa về phương nam nên không cần đến quần áo này
làm gì. Trong phòng anh chàng Texas uống một cốc lớn tequila và nói đã sẵn sàng
kiếm một người đàn bà nhưng đến lúc anh ta hỏi một người gây giống ngựa giàu có
về chi phí, mới biết họ phải trả thêm năm trăm đôla cho những thứ được giải
thích là "gái, rượu, hình xăm và thuốc".
Ăn tối xong, anh chàng Texas mời Cochran cùng đến một nhà
thổ nhưng anh khước từ và nói anh sẽ cho ngựa ăn, uống cô và dẫn chúng đi dạo.
- Tôi đã chú ý thấy hôm nay là một ngày trọng đại của
anh, chơi bời tí chút sẽ làm đầu óc anh xả láng.
- Không. Hôm nay tôi đã giết một kẻ tôi căm hận và tôi
không muốn lẫn lộn niềm vui. Tôi muốn nằm trên giường và ngẫm nghĩ xem thú vị đến
đâu.
Anh chàng Texas gật đầu và châm một điếu xì gà. Anh ta chẳng
phải là người ngốc.
- Tôi nghĩ là anh có lý do của anh. Nhiều năm trước, tôi
đã giết ngoéo một thằng ngủ với vợ tôi. Mất một năm mới làm được việc đó nhưng
tôi mỉm cười nghĩ đến cái giày ống rỗng tuếch của thằng khốn đó
Anh chàng Texas thoả thuận với một người hầu gọi hộ chiếc
taxi. Cochran trở về phòng, soi gương và ngắm kỹ mình. Anh rửa vết máu khô trên
con dao của Mauro trong chậu, rồi sờ chuỗi vòng cổ lạ lùng. Anh huýt sáo một điệu
dân ca và một nhịp cao vút lên run run đập vào tận cùng não anh. Anh biết anh
chỉ mới vừa bắt đầu và không thể thiếu thận trọng, nếu không anh sẽ chết trong
lúc gắng sức. Về mặt ham hiểu biết, anh là một trong những phi công mà khoảng
cách đến mặt đất chưa lần nào xoá sạch nỗi sợ cái chết: trí tưởng tượng của anh
quá lớn. Anh ra ngoài vừa dẫn ngựa đi dạo vừa rầu rĩ nghĩ đến anh chàng Texas
đang loạng choạng, bấp bênh ven bờ cái chết, anh ta biết thế và đang cố sống gấp.
Anh thức giấc ngay sau rạng đông và hoảng sợ thấy anh
chàng Texas không về. Anh tìm thấy anh ta trong chiếc xe tải, mặt xám ngoét, vạt
trước áo sơ mi bết máu và những thứ nôn mửa. Cochran kiểm tra vết thương nhưng
không thấy, và mạch đập loạn nhịp. Anh dẫn ngựa đi trong giây lát và băn khoăn
không biết nên làm gì. Trở lại chiếc xe, anh chàng Texas hé mắt nhìn anh và đòi
bia. Anh lấy một chai bia khỏi nước âm ấm trong thùng lạnh và nhìn gã Texas uống
thuốc.
- Anh đến bác sĩ đi, anh bạn.
Anh chàng Texas gật đầu và thiếp đi. Cochran tìm ra đường
40 đến Durango và Torreón, rồi đỗ lại uống cà phê để suy nghĩ cho thấu đáo. Anh
biết một kẻ láu cá sẽ bảo bỏ quách anh chàng kia mà làm việc mình. Nhưng anh
không đành lòng làm thế, đằng nào cũng mất thêm một ngày rồi. Anh trở lại xe tải
và lúc này mắt người Texas đã mở:
- Tôi có thể thấy anh đang nghĩ ngợi. Cái lão già trời
đánh này sắp chết trong tay ta sao? Mình sẽ làm gì vì lợi ích của Chúa và làm
gì với con người chết dẫm này? Đừng lo, anh chỉ cần giúp tôi giao con ngựa này
và tôi sẽ đền đáp anh xứng đáng. Tối qua tôi đã nói với bà chủ rồi, có lẽ đây
là lần cuối cùng của tôi và bà ấy đã làm một việc tốt lành - Anh ta lẩm bẩm những
câu này trong lúc Cochran vừa bối rối nhìn ra ngoài cửa xe vừa chăm chú lái xe
theo con đường núi gấp khúc đến Durango, vì anh chàng Texas lại rơi vào giấc ngủ
say sưa.
Tuy vậy sau bữa ăn trưa ở Durango, chàng Texas khoẻ hơn
lên và họ lên đường đến Torreón. Cái điều hoà nhiệt độ bị hỏng và trong xe nóng
như một cơn ác mộng. Anh ta nói huyên thuyên về việc kinh doanh ngựa trong khi
Cochran tự lự nghĩ ngợi về Durango. Có lúc anh đã nghĩ đến việc thoát khỏi cái
vỏ khách du lịch, Mexico có nhiều thứ trở nên khó hiểu, gần như phong kiến, khó
lòng chuyển đến mà không bị chú ý. Anh rất cần nghĩ ra một vỏ bọc và làm lái
buôn ngựa không ổn. Anh có thể sử dụng mối quan hệ với chính quyền thành phố
Mexico của bạn anh, mặc dù anh không muốn. Anh phải đủ khéo léo để đến với
Miryea mà không bị giết. Giữa đường đến Torreón anh giật mình thấy anh chàng
Texas túm lấy cánh tay anh:
- Cái thằng cha to con ấy đập vào mắt anh phải không? Hay
còn làm gì hơn? - Lúc này anh ta bừng bừng giận dữ và nắm chặt bàn tay nhiều lần
- Anh không phải nói gì hết. Nói thật với anh tôi là kẻ bỏ đi, nhưng đây là một
đất nước đẹp đẽ và tôi chẳng bao giờ muốn chêt ở nơi nào xấu xí. Tôi đã mơ ước
được chết ở Big Timber, Montana. Chỉ cần để tôi dưới một tảng đá cho ra trò vì
tôi không muốn lũ chim ó xâu xé tôi mà thôi.
Giây lát sau họ đến một đồn điền tráng lệ có cổng kép, có
lính gác, một trại tập trung rào dây thép gai, nhiều khuôn viên ngay hàng thẳng
lối, bể bơi, sân tennis, vòng đua ngựa, một toà nhà sang trọng và nhiều chuồng
ngựa. Họ uống sherry (2) trong lúc đợi baróne tới. Anh chàng Texas nhận một hộp
xì gà mở sẵn đựng tiền và đóng ngay lại không cần đếm.
- Tôi cho rằng tôi sẽ về đến nhà mà không dùng đến số tiền
này - Anh ta nói bằng tiếng Tây Ban Nha, kiểu cách ngạc nhiên.
Baróne cười và nói bằng thứ tiếng Anh đặc giọng Oxford:
- Tôi rất thông cảm với nỗi lo của anh - Ông ta đưa cho
anh ta tấm thiếp - Chỉ cần nhắc lại tên cho bất cứ ai làm phiền anh. Chúng sẽ
chạy như thỏ.
Họ được dẫn tới nhà khách cạnh dãy chuồng ngựa, được dọn
ăn và một chai Scotch. Ban đêm, chàng Texas kể chuyện về mẹ rồi đi vòng quanh,
hết cười lại khóc và uống rượu. Quá ba giờ sáng anh ta chết và Cochran điều chỉnh
anh ta theo tư thế ngồi để cái xác chết cứng ăn khít với ghế trên xe.
Lúc rạng sáng, Cochran khuân chàng Texas vào trong xe tải
và kéo cặp kính Stetson che mắt anh ta. Anh vẫy tay chào những người lính gác
trên đường ra cổng kép và chôn người Texas cách đường cái mấy dặm, dưới tảng đá
lớn như anh ta mong muốn. Có ba con bò nhìn thoáng qua vẻ tò mò. Cochran lái thẳng
qua thành phố Mexico, thỉnh thoảng chợp mắt một lúc. Trên đường về qua Durango,
anh huýt sáo bài hát ngắn của Miryea để lấy sức mạnh. Lúc này anh là người khó
mà đánh gục, anh đang trên đường đi tới. Có lẻ nào đó đã lấy mất tinh thần của
anh và anh nghĩ phải giành lại bằng được. Anh ở thành phố Mexico hai mươi tư giờ
và bỏ chiếc xe tải cùng xe moóc ở bãi đỗ xe của sân bay. Anh mặc bộ quần áo đẹp
nhất của anh chàng Mexico để trong xe moóc và đi taxi đến Camino Real, hộp xì
gà cắp dưới cánh tay.
Nữ tu viện mà Miryea bị giam giữ như một nhà tù cách
Durango bảy dặm, là nhà nghỉ nông thôn của quý tộc thế kỷ mười tám, hiện đã suy
sụp đôi chút ở ngoài rìa nhưng nhìn từ xa vẫn đẹp, làm anh nhớ tới Normandy.
Sau quá trình giải độc, chữa cho nàng khỏi cơn nghiện cưỡng bách suốt một tháng
ở nhà thổ, nàng được ra khỏi phòng và đi lang thang trong sân với các bệnh nhân
khác được coi là cư xử tốt, dù hưởng tự do tối thiểu. Nàng bị coi là một tu nữ
thô kệch, có ria mép canh gác cẩn thận. Không sao có dịp tiếp xúc với một tù
nhân đem lại lợi nhuận như thế. Mẹ bề trên trưởng viện đặc biệt ghê tởm Miryea;
làm sao một phụ nữ dòng dõi quý phái và được giáo dục tử tế như thế lại nghiện
ma tuý và là một gái điếm điên rồ trong một nhà thổ rẻ tiền nhất, bộ mặt bị một
tên ma cô nào đó huỷ hoại. Bức thư do tài xế của Senor Mendez đưa trình là một
lời yêu cầu xé lòng, xin cứu rỗi tâm hồn tội lỗi của người đàn bà khốn khổ.
Nhưng mẹ bề trên bản chất tốt bụng nếu được hối lộ một món tiền nhỏ, và sau một
tháng đã cho phép Miryea đặt mua ít sách từ thành phố Mexico, dù mẹ kiểm tra
thư từ rất kỹ càng. Các cô gái chỉ nhỉnh hơn trẻ con một chút bị chứng loạn thầnkinh
được những người thân khác chăm chút, chỉ có ba cô bé mắc chứng tự kỷ là hoàn
toàn lẻ loi trong bóng tối câm lặng, vì chúng chẳng phản ứng lại với ai. Miryea
quyết định phải có trách nhiệm đặc biệt với chúng, nàng tìm đọc sách để tìm hiểu
bệnh này. Nàng ngồi suốt nhiều ngày trong mảnh sân ngập nắng với ba đứa trẻ,
giúp chúng mặc áo quần và cho chúng ăn, ru chúng ngủ và sử dụng khiếu dí dỏm đặc
biệt của nàng để cố gợi nên một phản ứng nào đó. Nàng lo lắng chà xát vết sẹo
trên môi đã lành thành một sợi mảnh những mô cứng. Nàng hơi khó chịu, vì ý nghĩ
của nàng hay trở lại những mùa hè thơ ấu ở Cozumel. Nàng và chị gái suốt ngày
bơi, hái hoa, nhặt vỏ ốc và lúc gia đình không có khách, lại cùng cha đi chơi Vịnh
trên chiếc thuyền câu cá lớn của ông. Cha nàng đã mất từ nhiều năm trước, nếu
không chắc chắn ông sẽ tới giúp nàng. Một trong những phó thuyền trưởng đã làm
tình với chị nàng lúc chị nàng mới mười ba tuổi, và cha nàng đã dìm anh ta chết
đuối trong một chuyến đi biển dài đánh cá cờ. Nàng không dám mong người yêu của
nàng sẽ tới cứu nàng, dù nàng không chịu tin anh đã chết. Một ngày nào đó nàng
sẽ ra khỏi nơi đây và giải toả điều tổn hại to lớn nàng đã gây ra cho anh, biết
đâu anh sẽ không ghê tởm những vết sẹo này, họ sẽ lại là một cặp yêu nhau, song
chỉ sợ là chuyện quá hão huyền. Những lúc mơ màng nàng thường mất hết liên hệ
và khi tỉnh lại, nàng ngạc nhiên thấy mình vẫn còn sống, nàng chắp hai bàn tay
vào nhau và nhìn quanh phòng hoặc mảnh sân với vẻ tò mò, hoảng sợ thật sự. Khi
nỗi hoảng sợ trở nên đặc biệt kinh khủng, nàng cố tìm mọi cách thoát ra mà
không nổi, nàng thường tìm một chỗ, ngồi khóc nức nở cho đến lúc đủ bình tĩnh
trở lại nhiệm vụ của nàng. Người khác nhìn nàng không thể thấy dấu hiệu nhìn thấy
hoặc nghe thấy, giống như những con cún mù và điếc.
Trở lại nông trại bên ngoài Tepehuanes, Baldassaro Tibey
rầu rĩ nhìn mùa thu đã hết. Từ phòng ăn sáng, anh ta có thể nhìn thấy
Cordillera của Sierra Madré nhưng những ngọn núi đem lại cho anh ta nhiều ý
nghĩ xấu xa về người cha Tibey coi là quý phái hơn anh ta nhiều. Ông đã từng là
bạn thân của Eufemio Zapata, anh trai của Emiliano và là trung uý trong cuộc
Cách mạng. Ông mất khi Tibey lên mười vì vết tích của nhiều vết thương, vì nhiều
năm cưỡi ngựa, uống rượu và chiến đấu gian khổ. Nhiều ông già ở Culiacán vẫn kể
về ông và bất chấp sự giàu có của Tibey, họ không cho anh ta một chút vinh dự
dù chỉ là mơ hồ. Tibey vốn là người sắc sảo song lại có tính duy tâm, hồi trẻ
anh thường mơ thành người lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa phi lý nào đó. Mặc dù
phát đạt, Tibey giống như nạn nhân của những giấc mơ anh ta đã xây đắp từ năm
mười chín tuổi, cái tuổi mà tất cả chúng ta đều vô lý đến cực điểm. Mười chín
là lứa tuổi của người lính bộ binh hoàn hảo, có thể chết mà không kêu ca, trái
tim rực lửa yêu nước. Mười chín là lứa tuổi mà tâm trí của một nhà thơ non trẻ
trong căn phòng đi thuê bay vút lên cao nhất, vui sướng đón nhận những khổ sở
và coi là hiện thân của thần thánh. Mười chín tuổi là năm cuối cùng của một phụ
nữ trẻ lấy chồng chỉ vì tình yêu. Vân vân. Những giấc mơ săn đuổi tâm hồn, và bốn
chục năm sau Tibey vẫn cảm thấy bị dồn vào thế bí. Anh ta rất khó ngủ, trở nên
lơ đễnh và hốc hác. Tibey đi máy bay lên thẳng cùng viên quản lý nông trại bắn
đến ba tá sói đồng cỏ quấy phá đàn cừu, trong lúc thừa biết có khi chỉ là một
con sói già lụ khụ phá phách. Miryea đã buộc anh ta hứa không bắn loại sói này,
nàng đưa cho anh một quyển sách và anh ta đọc vì tò mò. Tibey đã hứa. Anh ta
như một đứa trẻ trong tay nàng. Nàng là sự giải thoát duy nhất khỏi những thứ
anh ta có trên đời. Nàng kéo anh ta trở lại tuổi mười chín. Giờ đây, cả hai
đang trong những cơn ác mộng và nhiều lúc thức dậy, Tibey vẫn cảm thấy trong
bàn tay khoảnh khắc lưỡi dao cạo rạch qua môi nàng và chạm phải răng nàng.
Ở Camino Real, Cochran được biết rằng chẳng có gì giá trị
ngoài một dãy phòng anh thuê. Anh nói giọng Texas màu mè, hợp với trang phục của
anh. Anh bỗng muốn ra khỏi hành lang này khi nhớ đến bữa tiệc sau khi thắng
trong cuộc đấu tennis với Tibey. Anh gọi mang bữa tối và một chai vang lên
phòng, cảm thấy mệt mỏi thấm thía và bồn chồn lo sợ. Anh tắm thật nhanh, lấy hộp
xì gà đựng tiền nhét vào trong người. Ăn xong anh sẽ đếm số tiền để không phải
băn khoăn nghĩ ngợi làm gì, và sẽ có ngày lần ra dấu vết những người thừa kế của
anh chàng Texas ở Van Horn, có khi trang trải cho người nhân giống ngựa, nhưng
anh còn ngờ lắm. Anh gọi điện cho anh trai của người bạn phi công ở Aeromexico.
Người đó thân ái chào mừng anh đến thành phố Mexico, bảo nói qua điện thoại
không tiện và dặn anh đừng rời phòng, anh ta sẽ đến khoảng giữa buổi sáng xem
có giúp được gì không. Cochran ngủ ngon lành, khẩu 44 xanh lạnh lẽo của người
Texas để dưới gối.
Đến rạng đông,anh gọi cà phê và ngồi ngoài ban công nhìn
xuống khu vườn, mơ màng cho đến lúc người đầu tiên là bác làm vườn đến, anh mới
trở vào phòng để nghiền ngẫm kế hoạch báo thù và tồn tại, hai bản năng hiếm khi
kết hợp với nhau mà vẫn giữ được an toàn.
Lúc người đàn ông đến, ngay từ ban đầu Cochran đã không
ưa sự ngọt ngào trong bộ complê xám nhạt kẻ sọc hồng, cái vỏ ngoài sơn phết
khéo léo đến thế trên mặt một chính trị gia. Anh ta có vẻ lo lắng và đề nghị
Cochran nói tiếng Castilia mà anh ta cũng thông thạo. Cảm thấy vừa ý, người đó
nói không thể giúp gì cho Cochran về chuyện Tibey ngoài việc giới thiệu cho anh
nhận dạng và sự giúp đỡ của một người anh có thể tin cậy, một người bạn lâu năm
có tên tuổi là Durango. Người đó giải thích rằng họ đã làm nhiều phim ở
Durango, thường là phim cao bồi của Mỹ và Mexico, nên Cochran có thể đi lại thoải
mái dưới danh nghĩa là chủ một nhà máy dệt từ Barcelona đang quan tâm đến kinh
doanh bất động sản và phim ảnh. Anh ta mở cặp và đưa cho Cochran mấy cái thư giới
thiệu đầy sức thuyết phục và tiền, song Cochran từ chối, anh nói anh đã có khá
nhiều tiền. Cả một khẩu 38 ly của Cảnh sát đặc biệt mà em trai anh nhờ chuyển.
Cochran cười và nói anh đã vũ trang đầy đủ. Người đó trở nên nghiêm trang và
đưa cho Cochran một xấp tài liệu về Tibey, anh từ chối và nói anh đã có đủ.
- Anh nên hiểu Senor Mendez là thứ anh gọi là kẻ rửa tiền;
tôi muốn nói hắn rất có uy thế chính trị và hiện nay tiền của hắn là sạch sẽ.
Anh sẽ chết một cách chắc chắn và em trai tôi, người mà tôi yêu thương rất lo
cho anh. Kể cả bộ quần áo lố bịch này nữa, tôi biết chắc dễ chết hơn là sống. Bạn
tôi ở Durango chưa thấy dấu vết gì của người phụ nữ ấy nhưng vẫn đang tích cực
tìm kiếm.
Lúc này Cochran thấy thích người đàn ông và cố đoan chắc
với anh ta, nhưng anh ta nhấp từng ngụm một và nhìn lảng đi. Anh ta nói đã nhận
được tin nhắn của một người là Mauro ở hội truyền giáo, người đã tiễn Cochran đến.
Hermosillo và ngay sau khi họ ra đi lúc rạng đông, một tên khổng lồ và hai tên
tay sai đã đến, trông đằng đằng sát khí.
- Tôi đã moi ruột thằng khốn ấy như một con lợn béo ị -
Cochran nói và cười gượng.
Người đàn ông gật đầu như được an ủi. Trước khi ra về,
anh ta đề nghị Cochran huỷ số điện thoại của anh ta sau khi nhớ kỹ. Anh ta có
em trai, nhưng cũng có vợ con và một tương lai đầy triển vọng.
Cochran mất cả buổi chiều đi may cắt quần áo cho giống một
thương nhân ở Barcelona. Anh bỏ ra vài ngàn đô la và nhét hộp tiền vào bên
trong tivi. Anh mua mấy bộ complê và các thứ phụ kiện, chải tóc, tỉa râu và cắt
sửa móng tay cho đúng kiêể, rồi đặt một chỗ trong chuyến bay sớm mai đến
Durango. Anh luyện giọng như người nước ngoài nói tiếng Anh, thỉnh thoảng lại bỏ
quên mạo từ. Anh gửi cho con gái một bức thư dài, nhắc lại anh mong sẽ sớm về
nhà, và gần đây anh hơi buồn vì con chó săn chim Doll của anh đã bị ô tô chẹt
chết. Sẩm tối, anh gói ghém hành lý vào một bộ vali mới, đắt tiền. Anh ăn qua
loa và nằm trần truồng trên giường trong bóng tối, lắng nghe một bản giao hưởng
của Bach trên đài.
Anh nằm đó thao thức, nhớ đến một buổi tối, anh đã cãi
nhau một trận nho nhỏ với Miryea trong căn hộ về một vấn đề văn chương ngốc nghếch,
ai giết ai trong Pascual Duarte, một loại sách hành động, và tối hôm đó trong
lúc anh nói ba hoa đã len vào một vẻ trơ tráo nhất định. Anh biết anh tranh cãi
chẳng qua vì hormone khuấy động cân não và cả "cái ấy" của anh mà thôi.
Anh là người nói hay, nhưng nàng cứ ráo riết truy nã tính ương ngạnh của anh
không thương tiếc, nhắc anh rằng ngôn ngữ là thứ có ích cho trái tim chứ không
phải là cái dùi cui để sử dụng. Anh úp gối lên mặt vì ngượng ngập và hét lên rằng
ơn Chúa, xin hãy tha cho cái bệnh to mồm của tôi đi. Anh nghe thấy nàng cười và
dưới bóng của chiếc gối, anh cảm thấy miệng nàng đang mơn trớn anh. Anh đẩy nhẹ
gối lên phía trên mắt nhìn thấy đầu gối nàng và bất chợt có một cảm giác rõ
ràng, liên hệ đến nhiều thứ vì anh chưa bao giờ nhìn vào đầu gối một người đàn
bà. Anh ngước mắt nhìn lên cho đến lúc thấy toàn thân Miryea, và trong giây lát
dường như lần đầu tiên thấy vẻ ngỡ ngàng của nàng. Anh lặp lại cảnh mộng mới lạ
này, lướt cái nhìn từ những ngón chân cong cong đến mái tóc đen bóng đổ dài
trên bụng nàng. Tình yêu của anh dành cho nàng vừa toàn vẹn, vừa mãnh liệt
không chịu nổi. Sau này anh kể lại chuyện ấy và nàng có vẻ hiểu tường tận. Tâm
trạng anh nhẹ nhõm như thể lần đầu tiên anh lĩnh hội được cuộc sống thực tế ở ngoài
con người anh: nó an ủi anh lạ lùng, làm anh ngủ dễ dàng vì không còn quan tâm
đến có ngủ được hay không nữa. Anh nhanh chóng miệt mài nghiên cứu, cố hoà hợp
kinh nghiệm với cấu trúc ngôn ngữ, như thể cuộc đời là một tấm gương đặc biệt ô
trọc và tình yêu không thể diễn đạt bằng lời đã tẩy rửa tấm gương ấy, làm cho
cuộc sống không những chịu được mà còn sống chung với sự háo hức, với nghị lực,
với sự ngóng chờ, niềm vui sướng, không phụ thuộc vào số mệnh.
Anh ngủ yên suốt buổi sáng cho đến giờ lên đường, nhưng
chỉ bình tĩnh khi thuê được chiếc Beechcraft, anh ăn sáng và lên taxi ra máy
bay. Đó là buổi sáng đẹp nắng, trong sáng và ban đêm có mưa ngắn kèm thêm gió
nhẹ thổi từ phương Bắc, xua tan không khí bẩn thỉu hàng ngày của thành phố
Mexico thành sạch sẽ và trong trẻo. Đứng trên lớp nhựa đường, anh ngưỡng mộ ngắm
nhìn những ngọn núi ở phương nam, quên hẳn hiện tại đang phải chịu. Người phi
công tỏ ra cung kính và họ bay vào luồng gió ngược lồng lộng và thấp để nhìn khắp
vùng. Họ bay qua Celaya, Aguascalientes, trên những phế tích Quenmada và
Frensnillo, trên biên giới Zacatecas và tỉnh Durango và thủ phủ của nó có cùng
tên. Họ lượn chiếc máy bay nghỉ ở Guadalajara ít phút. Một người đàn ông tên là
Amador đang đợi anh.
Chú thích
( 1 ) Mescal: loại rượu không màu ở Mexico, chưng cất từ
lá cây thùa
( 2 ) sherry: loại rượu màu vàng hoặc nâu, có nguồn gốc
từ Tây Ban Nha
Post a Comment