(Ngạn ngữ cổ Sicily).
Full trọn bộ
Chương 1 | Chương 2 | Chương 3 | Chương kết
Tên truyện: Báo
thù
Tác giả: Jim Harrison
Thể loại: Tiểu thuyết
Chương 1
Bạn không thể nói người đàn ông trần truồng kia đã chết
hay còn sống, nếu bạn là con chim đang sà xuống (mà có một con chim đang sà xuống
thật, một con kền kền). Chính người ấy cũng không biết và con chim ngập ngừng
lúc đáp xuống mặt đất, kêu rền rĩ lúc đến bên cạnh, nghi ngờ và nhìn vào khu rừng
rậm như thể mong đàn chó sói. Xác chết đã thối sẽ được chia theo một kiểu không
do những kẻ chung phần muốn, mà theo kiểu đã định sẵn, từ trước khi bất cứ kẻ
nào biết đến. Con kền kền vừa ăn một con rắn chuông bị xe tải chẹt chết ở ngoài
Nacozari de Garcia, một thành phố nhỏ hấp dẫn du khách, cách Nogales khoảng một
trăm dặm. Lũ chó sói sẽ theo vòng lượn của con kền kền vì tò mò, dù chúng trong
cuộc săn đêm còn đói hay không. Khi buổi sáng ấm lên, kền kền sẽ tới đông thêm
cho đến lúc người đang chết kia có người nhòm ngó.
Giữa buổi sáng lúc trời sáng rõ, sức nóng đã hun khô và
đóng bánh lớp máu trên mặt người đàn ông, máu hầu như đã mất mùi tanh của đồng.
Người đang hấp hối lúc này chập chờn, phần lớn vì hơi nóng và mất nước hơn là
vì những vết thương: một cánh tay bị vặn xoắn, một vết bầm lớn màu xanh lơ trên
ngực, một bên gò má vỡ vụn, máu trào ra giống như mặt trời đỏ tía, hai hòn cà
sưng phồng. Máu từ cái đầu bị thương làm đen thẫm cát sỏi và dìm anh ta vào giấc
ngủ hôn mê gần như chí tử. Anh ta vẫn còn thở, luồng không khí nóng rít như còi
qua chiếc răng vỡ và lúc tiếng còi rít lên đặc biệt to, lũ chim kền kền đâm
lúng túng. Một con sói cái và những con sói con vừa cai sữa dừng lại nhưng chỉ
một lúc thôi: sói mẹ đớp lũ con như muốn nói cái sinh vật tầm thường này chỉ bị
nguy cấp xoàng xoàng thôi. Nó gật gù lúc đi ngang qua một con sói đực già rất
to dưới bóng một tảng đá mòn đang tò mò ngắm nghía. Nó nhìn rồi gà gà ngủ, ngay
cả trong giấc ngủ vẫn cảnh giác mà chúng ta không biết. Bụng nó đầy javelina và
nó rình người đàn ông đang hấp hối chỉ vì đã từ lâu, đấy là vật thú vị nhất bất
ngờ trên đường của nó. Tuy vậy tất cả chỉ vì tò mò: khi người chết, sói sẽ bỏ
đi ngay, để lại cho lũ kền kền. Đây là chuyến thức canh suốt đêm của nó, vì nó ở
gần ngay đó lúc người đàn ông trần truồng kia bị ném khỏi xe ô tô trong đêm
qua.
Trong buổi chiều tương đối mát mẻ đầu tiên, một nông dân
Mexico (peóne theo tiếng lóng của Mexico) và cô con gái đi dọc con đường, len
vào các bụi cây nhặt củi. Đúng hơn là người đàn ông đi lầm lì dưới bó củi nhẹ,
còn cô bé nhảy lò cò hết chân này đến chân kia, nhảy chân sáo và chạy rồi đợi bố.
Em là con một và bố em không muốn để em đi nhặt củi, sợ bị bò cạp cắn, hoặc bị
corallo, một loài rắn đỏ như san hô không có tín hiệu báo trước như rắn đuôi
chông, dù nó nhút nhát và hay xa lánh nhưng không có nghĩa là không nguy hiểm.
Nó chỉ cắn khi bị dồn vào thế bí hoặc bị trêu chọc, rồi trườn đi và lặng lẽ rút
vào dưới một khúc gỗ hoặc một tảng đá. Cô bé mang theo quyển Kinh Thánh. Em
giúp việc trong bếp của hội truyền giáo Mennonite (1), nơi cha em làm quản gia
từ lâu.
Cô bé bắt đầu hát làm lũ chim kền kền còn cách con đường
khoảng một trăm mét vỗ cánh bay đi. Đằng nào chúng cũng phải đến các lùm cây
trên núi cho an toàn trước khi trời tối. Con sói rút vào chỗ bóng râm dày đặc
hơn. Nó nhận ra tiếng người đàn ông và cô con gái, và từ bảy năm trên đời nó đã
biết họ có thể nguy hiểm cho nó. Nó đã theo dõi họ trên con đường đến hội truyền
giáo không biết bao nhiêu lần, nhưng họ chưa bao giờ nhìn thấy nó. Những con
chim lớn vỗ cánh bay trong ánh trời chiều khơi dậy sự tò mò của người cha và
anh ta rảo bước. Không như con sói, anh có tính hiếu kỳ của người đi săn, anh
nhớ lại có lần gặp một con hươu to bị rơi từ vách núi xuống và sau đó là lũ
chim kền kền lượn tròn. Anh bảo con gái đợi cách đó một quãng và thận trọng bước
vào khu rừng rậm dọc theo con đường. Nghe thấy tiếng thở gấp và tiếng rít yếu ớt,
anh vội rút con dao dài có cán nạm ngọc ra. Anh bò không một tiếng động tới thẳng
chỗ có tiếng rít, ngửi thấy mùi máu giữa đám phân kền kền. Rồi nhìn thấy người
đàn ông và anh vừa huýt còi ra hiệu, vừa quỳ xuống bắt mạch. Những lúc rỗi rãi,
anh hay theo nhà truyền giáo đồng thời là bác sĩ trong những chuyến đi vất vả
lên núi, và đã học được nhiều cách sơ cứu cơ bản. Lúc này anh đứng, huýt sáo
hoà với người hấp hối và nhìn lên trời. Giống hầu hết dân da đỏ, ý nghĩ đầu
tiên của anh là bỏ đi, tránh bất cứ mọi tiếp xúc với cảnh sát Liên bang. Nhưng
viên bác sĩ đánh bạn với nhiều nhân viên liên bang và anh nhớ đến truyện ngụ
ngôn về người hay làm phúc và nhìn xuống thân người, thôi thì đằng nào ta cũng
giúp nhưng chắc là quá muộn rồi.
Anh ra khỏi bụi cây và bảo con gái chạy về hội truyền
giáo cách đó nửa dặm, dưới thung lũng. Anh ngồi xổm bên lề đường và lăn lưỡi
dao tới lui trên lớp sỏi. Cảnh tượng người bị thương trầm trọng làm tim anh đập
nhanh hơn, nhưng anh bình tĩnh nhẩm lại câu chuyện tìm thấy người đó. Hồi trẻ,
ngoài việc đi săn, anh đã từng là kẻ cướp vặt và hiểu rằng khi nói với các nhà
chức trách, tốt nhất là phải giữ cho mọi sự thật đơn giản.
Ở hội truyền giáo, Diller đang ngồi ăn món thăn lợn rán với
dưa cải bắp và khoai tây. Cái radio VHF của ông ta ngân nga giai điệu của dàn
nhạc Mariachi ở Chihuahua. Dù là một Mennonite và chính thức chê bai radio, ông
cảm thấy xứng đáng có một số nhượng bộ nhất định và bắt đầu lắng nghe loại âm
thanh này từ mười năm nay, trước khi đến hội truyền giáo dưới chiêu bài đẩy
nhanh việc học tiếng Tây Ban Nha thông dụng. To lớn và hồng hào, ông ta gần như
kêu inh ỏi theo tiếng nhạc làm đám đàn bà trong bếp bật cười. Nhà thờ không cho
phép uống rượu hoặc hút thuốc, nhưng Diller có một thói xấu không bị cấm là
tính phàm ăn. Chiều thứ Năm nào ông cũng thưởng thức món thăn lợn nấu cho ông,
như dấu vết duy nhất còn lại của cuộc sống ở Mỹ. Ông thích các món ăn Mexico
hơn, và ăn nhiều đến mức trở thành truyền thuyết khắp vùng. Ông không phải là
người mộ đạo nhiệt thành, nhưng ông hiểu chính nghề bác sĩ và tài khéo trong y
học đã dán cho ông cái nhãn của Chúa Jesus, rất được sùng bái ở vùng núi kiệt
quệ này. Ông không về Mỹ trong những chuyến nghỉ phép mỗi năm một tháng nữa.
Cái cảnh ba mươi ngày ngồi ở Bắc Dakota và cầu nguyện cho những kẻ ngoại đạo
trên toàn thế giới làm ông chán ngắt. Diller khá thích những kẻ ngoại đạo và vẻ
đẹp dãi dầu của vùng họ, những nỗi trớ trêu phải chịu đựng và thuyết định mệnh
của thời tiền - Cơ đốc. Ông thích ăn thịt gà, thịt lợn, lợn sữa, dê và cừu mà
dân chúng đưa đến làm quà khi ông thực hiện được một kỳ công nào đấy trong y học.
Thậm chí ông quý cả anh chàng y tá Antonio ẻo lả, lúc nào cũng tìm ra cớ để lái
xe đến Nogales hoặc Hermosillo. Một năm trước, cha đạo của hội truyền giáo đã đến
thăm và hỏi Diller có phải Antonio là loại "hơi đặc biệt" không.
Diller câm tịt, giữ kín tài nấu ăn của Antonio, anh ta biết nấu những món ăn lạ
lùng không có trong sách, và hát rất hay những khúc ballad dù cho các giống
trong khúc ca có khuynh hướng đổi giới tính.
Diller rên lên khi con gái của Mauro chạy ào vào, kêu tướng
lên là có người bị thương ở trên núi. Cô bé lôi cái túi cứu thương ra chiếc
Dodged Powerwagon nay dùng làm xe cấp cứu, có tấm vải bạt phủ nóc và lều ở đằng
sau. Diller đi sau, mang theo món thịt hầm. Ông khoái món dưa bắp cải ở đáy đĩa
đẫm mỡ lợn. Diller đứng lại trên hiên của đồn điền và hít thật sâu mùi không
khí ban chiều: mùi phân bón và mùi đinh hương ngọt ngào, những bông hoa nhàu
nát đang thối rữa, mùi của những tảng đá và cát quá nóng đang nhạt dần trong
đêm. Diller yêu thích thung lũng vì nó có vẻ tối tăm và nhiều bóng râm ngay cả
trong lúc nắng rực rỡ.
Tại hiện trường, Mauro cầm đèn pin soi trong lúc Diller
lau mỡ lợn trên bàn tay vào quần và cúi xuống thân người, đọc lời cầu nguyện rồi
khám kỹ và dự đoán. Ông không tin người đó sẽ sống vì trong hai mươi tư giờ đầu
tiên thật bấp bênh, anh ta đã bị mất nước nghiêm trọng. Sọ không bị nứt nhưng
tròng mắt đưa qua đưa lại cho thấy bị chấn thương nặng. Diller lấy đèn bỏ túi
ra và cúi xuống gần mắt người đàn ông trần truồng xem chỗ sưng phồng thành núm
trong nhãn cầu, một chấn thương rất nghiêm trọng. Sau đó ông lướt đôi tay to lớn,
thành thạo lên thân người, khẳng định bị gãy xương sườn và cánh tay trái.
Diller luồn cánh tay xuống dưới thân người đàn ông và nâng anh ta lên. Mauro cầm
túi và chiếu đèn soi đường.
Về đến bệnh viện, Diller làm việc suốt đêm có Mauro phục
dịch. Ông muốn Antonio ở đó giúp nhưng anh chàng đã biến mất vì những lý do giả
mạo như thường lệ. Diller hơi hoang mang vì người bệnh. Dưới ánh đèn pin, ông
thấy một việc đáng thương nữa, nạn nhân đã bị cuộc chiến ma tuý nổ ra gần biên
giới hành hạ. Những kẻ tị nạn như thế này đã cung cấp cho Diller vài ca thú vị
nhất, xen kẽ với các nạn nhân ung thư của người cao tuổi thông thường, hay trộn
Dilaudid mạnh với thuốc để dễ dàng lên thiên đường. Lúc đã lau sạch máu, mới thấy
rõ người đàn ông trần truồng này chắc chắn là người nước ngoài: tóc anh ta cắt
rất đẹp, răng bọc vàng đắt tiền, móng tay cắt tỉa cẩn thận và làn da rám nắng mặn
mà, thân thể lành lặn, cường tráng, mọi vẻ làm anh ta khác hẳn bọn buôn lậu.
Sắp rạng đông, Diller mỉm cười thấy mạch đập đã đều và có
phản ứng với dung dịch trong tĩnh mạch. Ông thận trọng thăm khám kỹ chỗ xương
hàm vỡ vụn, sau này sẽ phải làm phẫu thuật thẩm mỹ nếu anh ta muốn. Mauro lau
làn da rám nắng bằng giấm và dùng gạc nóng lau hai tinh hoàn sưng phồng, nói
đùa trong lúc làm việc mệt nhọc rằng đây là việc tốt nhất cho Antonio. Bác sĩ
không nhịn được cười phá lên, dù đó là việc không thể trong lúc vẫn còn khó
khăn như thế này. Bác sĩ hát La Paloma trong lúc băng bó các dẻ sườn, Mauro hoà
theo bài hát tuyệt vời bằng cái nhịp trẻ con của anh ta.
Mauro và bác sĩ chuyển người đàn ông vào phòng riêng duy
nhất trong bệnh viện rồi ra hành lang, con gái của Mauro dọn cà phê cho họ lúc
trời vừa hè sáng. Diller nháy mắt với Mauro, cho anh ta một viên Dexamyl và tự
uống một viên. Mauro mỉm cười vì điều bí mật nho nhỏ này; suốt thời gian cấp cứu
họ không được ngủ, anh ta thích uống mescal (1) giấu dưới gầm giường của anh ta
hơn, dù đã tuyên thệ công khai ở nhà thờ chống lại các loại rượu cồn. Từ lâu rồi,
vào năm thứ hai ông ở hội truyền giáo và vợ ông đã bỏ ra đi vĩnh viễn, giải
thích trong cơn cuồng loạn rằng bà không thể chịu nổi cuộc sống ở Mexico và bà
không còn yêu ông nữa, Diller đã ngồi trên mảnh sân đất suốt đêm và khóc trong
lúc người giúp việc hoảng sợ, đứng trong hàng hiên của ấp trại theo dõi ông. Giữa
cái đêm lâm ly ấy, Mauro đã mang đến cho Diller cả lít mescal và ông đã uống một
cách thèm khát. Diller ngủ suốt một ngày nóng bức trên đất, mọi người lần lượt
che mặt cho ông và giữ cho ruồi khỏi bâu. Diller mỉm cười khi nhớ lại nỗi đau ấy.
Lúc này những tia nắng đầu tiên đã nhuốm màu nâu vàng một
bên đỉnh núi. Cái mầu riêng biệt ấy làm màu nâu trên sườn núi đầy đá nhạt đi,
luôn nhắc ông nhớ đến sườn hươu và sáng nay, sườn hươu lại làm ông nhớ đến những
lát thịt hươu. Thịt lợn và dưa bắp cải không còn ngon nữa, ông quyết định bỏ và
hoà nhập hoàn toàn với cộng đồng bản xứ. Con gà trống gáy làm ông nghĩ đến món
gà quay. Người nấu bếp gọi to và Diller cùng Mauro vào bếp, họ ăn một bát to
menudo và bánh ngô. Ông tin như dân Mexico rằng món lòng hầm nhừ rất bổ, dù ông
sẽ không tin như thế nếu không thích món này. Ông là người có khẩu vị nhất định.
Ông lo những sở thích ấy sẽ giết ông từ từ vì ông đã tăng đến 135kilô, dù ông
có bộ khung to lớn và cơ bắp nặng nề. Dexamyl làm máu gõ trống trong tai ông;
mang theo sự bất hạnh lan tràn khắp vùng quê, ông thích thú đùa bỡn với thần Chết.
Sau bữa sáng, ông vừa đi dạo vừa hát những bài hát ngắn về tình yêu và cái chết.
Ông thầm nhận xét rằng bệnh nhân cần có dạ dày thật khoẻ để chịu được nỗi đau
khi hết cơn bất tỉnh.
Chiều hôm ấy, Hector, đại uý cảnh sát liên bang khu vực
ghé đến lập biên bản về người bị thương. Lúc nửa ngày nhận báo cáo qua điện
tín, ông ta vui vẻ ra lệnh cho trợ lý chuẩn bị xe jeep để đi suốt đêm. Đến thăm
bác sĩ có nghĩa là được chén lu bù và chơi cờ suốt đêm, bàn luận về nghề làm vườn,
về chính trị, về việc nuôi gia súc làm thức ăn, và cuối cùng là có dịp nói về sức
khoẻ của ông ta, vì ở độ tuổi năm mươi lăm, Hector mắc chứng nghi bệnh và lo lắng
về khả năng giao cấu yếu ớt của mình. Ông ta kính trọng sự mộ đạo sâu sắc của
bác sĩ nên chỉ nhắc đến khía cạnh y học của khả năng giao cấu một cách tế nhị,
điều ấy làm bác sĩ thú vị và ông khuyên nên giảm uống rượu và hút thuốc lá,
năng tập thể dục. Lời trêu chọc cuối cùng là gợi ý có lẽ Hector quên mất
conchitas của ông ta vì những mối quan tâm thiêng liêng mất rồi. Gần đây bác sĩ
cảm thấy rất hoảng vì đã thèm khát lúc ông chữa cho một cô gái sơn cước hấp dẫn
bị bò cạp cắn vào chỗ trên cùng ở bắp đùi. Ông đã cầu nguyện nhiệt thành nhưng
có ẻ như nó chẳng giúp gì mấy, ý nghĩ của ông cứ trở lại năm đầu lấy vợ ở Bắc
Dakota, ông và người vợ trẻ măng của ông đã làm tình đến kiệt sức.
Khi Hector và trợ lý đến, họ đến ngay chỗ người bị thương
nhằm giải quyết cho xong những thủ tục tẻ nhạt, để có thể vui chơi cả buổi tối.
Bác sĩ cấm lấy vân tay vào lúc này, ông nói sẽ gửi ngay vân tay khi nào các vết
thương khá hơn. Trong vụ này, ông sẽ gửi cả dấu vân tay của chính ông vì không
muốn gây rắc rối cho bất cứ ai. Những người Mennonite không bao giờ giở luật ra
với nhau và bác sĩ áp dụng nguyên tắc này cả trong lúc hành nghề. Ông chăm sóc
cả phần hồn lẫn phần xác và tin rằng các nhà cầm quyền dân sự có đủ thiết bị để
tiến hành công việc mà không cần ông trợ giúp. Hector rất mừng vì sẽ có chuyến
trở lại để thẩm vấn, còn bác sĩ định sẽ xui bệnh nhân giả vờ mắc chứng quên nếu
anh ta muốn thế, hoặc làm bất cứ việc gì miễn là thoát khỏi thói quan liêu và
hình phạt nghiêm khắc theo luật dân sự của Mexico. Viên trợ lý lập một biên bản
chiếu lệ với thông tin sơ sài của Mauro và sau đó họ đến quán rượu dưới thung
lũng để gây ấn tượng với dân địa phương. Hector và bác sĩ ngồi ăn một bữa thịnh
soạn, nhiều món, Hector làm ra vẻ mệt nhọc như người đã xong công việc suốt một
ngày dài và không muốn nhớ lại.
Ngày thứ ba sau khi tìm thấy người bị thương Diller trở
nên ngần ngại. Người đàn ông bị viêm phổi nhẹ và không phản ứng nhau với
penicillin, bác sĩ cầu nguyện cho anh ta không bị dị ứng. Diller không muốn làm
hại anh ta nếu gửi máy bay lên thẳng đến bệnh viện cấp cao hơn ở Hermosillo.
Thêm hai ngày nữa, sốt đã dịu nhưng vẫn hôn mê. Lúc này Diller quyết định để
anh ta hôn mê thêm hai ngày nữa mới gọi điện cho Hector. Ông thích kiểu làm việc
tay đôi cân xứng và ông tò mò về người bị thương đén mức nóng lòng bịa nhiều lý
do để giữ anh ta lại. Đêm trước buổi sáng hạn cuối cùng, ông chú ý thấy Mauro
đeu chuỗi vòng cổ bằng răng chó sói đến bên giường bệnh. Không ngờ gì nữa, chuỗi
vòng là của mẹ Mauro, bà nuôi gia súc và là người giúp việc, tránh cho bà cái
tiếng buôn bán dược thảo và làm nghề phù thuỷ. Diller thường giảng giải về những
mối nguy hiểm của thói mê tín dị đoan, nhưng lúc này ông mỉm cười hiểu là một dạng
yêu thương. Lúc Diller vặn nhỏ đèn và rời đi, ông không nhận thấy người bị
thương đang quan sát qua kẽ hở của một trong những mí mắt không bị bầm tím của
anh ta.
Chẳng cần biết quá nhiều về người bị thương đang nheo mắt
nhìn vào bóng tối và tiếng kêu vù vù khe khẽ của chiếc quạt trần cánh bằng gỗ sồi.
Tên anh ta là Cockran và anh nghe thấy tiếng rền rĩ của chiếc máy phát điện chạy
bằng diesel, tiếng vo ve của muỗi duy nhất trong phòng, xa hơn và yếu hơn là tiếng
nhạc vọng từ chiếc radio của bác sĩ, buồn bã và trữ tình một cách tàn nhẫn dường
như làm đêm tối cũng bầm tím như thân thể anh ta vậy. Nhưng nước mắt anh đã cạn
trong mấy ngày nửa thức vừ qua. Như bất cứ sinh vật nào đùa rỡn với cái chết,
anh đã cố học được bản chất của sự đe doạ trước mắt. Anh biết lúc này chẳng còn
mối đe doạ trực tiếp nữa, lẽ ra thấy nhẹ người anh lại cảm thấy như ngưng đọng,
như thể anh ở bên ngoài vạn vật tiếp tục xoay theo những phép tắc mà anh không
còn tham dự nữa.
Anh vừa bị đánh, vượt xa mọi ý định báo thù. Anh coi sự
trừng phạt như một sợi chỉ dài kéo ngược từ hiện tại, từ căn phòng này đến gần
ngày anh ra đời. Chắc là do tác dụng của thuốc an thần, đầu óc anh có một sự lạ
lùng mới mẻ làm anh nhớ mọi sự như những chấm li ti dọc theo sợi dây đến cái hiện
tại khó mà chịu nổi. Anh không thể ngăn được thứ gì, lồng ngực anh không thể
thoát khỏi những dải băng. Anh đau quá không thể ngủ được và ngày mai anh sẽ phải
cho bác sĩ biết anh đã tỉnh, để giảm bớt nỗi đau. Anh vui vui vì tính kín đáo,
vì ý chí quyết sống vượt qua mọi thứ của anh mà anh hiểu rất rõ. Anh đã trải
qua nỗi ân hận lúc để lại vết nhơ từ đoạn đời này sang đoạn đời khác. Anh đã
chán sự tiếc thương và sức lực duy nhất còn lại đêm ấy là để mường tượng mọi
chuyện đã xảy ra như thế nào, như thế là may lắm rồi.
Đó là đêm dài nhất của anh, và sự sống kích động nó na ná
như luồng gió khắc nghiệt, lạnh lẽo, thông thống thổi qua bóng tối căn phòng: đầu
tiên là viên bác sĩ lẩm bẩm cầu nguyện, trước lúc đó có một bà lão treo chuỗi
vòng vào cột giường và đặt bàn tay lên mắt anh, rồi đến một thanh niên với động
tác của một vũ công kéo tuột tấm vải che để nhìn anh. Sau đó là một khoảng
không dài, tăm tối chẳng có gì xen ngang, một cánh cửa chớp lách cách, trên đó
anh nhìn thấy cái yếm thịt màu đỏ son trên cổ con chim ó và nghe thấy âm thanh
trong yết hầu phát ra từ cặp mắt vàng khè của con sói lúc con ó vỗ cánh bay lên
trời và con sói nhìn chằm chặp vào anh, cả hai không thể hiểu nhau ngoài những
cử chỉ đơn giản và hơi thở của anh rít lên qua những chiếc răng vỡ. Trước đó,
chiếc ô tô xả khí và nảy lên, còn anh nằm trong thùng xe máu chảy đầm đìa, cố
nén ho để khạc máu khỏi cổ họng và việc đó rất đau đớn, gần như quá sức. Sau đó
anh bị ném mạnh qua không khí, rơi qua bụi cây, ngực anh đập vào một tảng đá, rồi
lăn tròn và đầu anh đập vào cái gì đó.
Chẳng cần biết quá nhiều về người bị thương tàn tệ đến thế,
vì anh đã bị thương nặng đủ để thay đổi hoàn toàn dòng đời, có phần theo cách
ngược lại, lễ ban thánh thể lần đầu, không ít hơn sự thay đổi đột ngột đối với
một người tầm thường, biến đổi một tín đồ Cơ đốc, sự nhập thiền của tín đồ đạo
Phật. Tuy nhiên, có thể bỏ qua những ý nghĩ không mạch lạc vì anh đang đau đớn
và nhìn vào thứ chúng ta muốn gọi là thực tế đơn giản, một khái niệm chúng ta sử
dụng dễ dàng những lúc muốn tự dối mình thoát khỏi sự thối tha đặc biệt trong đời
chúng ta.
Buổi sáng trước khi Mauro và con gái tìm thấy anh bên lề
đường, trừ buổi sáng hôm sau, anh chỉ là một mẩu thịt ngắc ngoải đang thối rữa
suốt từ ngày đến đêm, anh đã tỉnh trong một trạng thái hiếm có mà anh cho là
tình yêu thương. Anh sống trong một căn hộ khép kín, đắt vừa phải ở ngoại ô
Tucson, là ông chủ của một ngôi nhà, trong mảnh sân sau nhỏ, kín đáo có một cây
đoan và ba sân tennis. Anh đã cho một người New York đã hồi phục có hiệu quả khỏi
bệnh hen, phải đến kiếm tiền ở miền Đông, thuê lại khu nhà.
Anh đang yêu và gọi điện cho người yêu ngay lúc thức giấc,
một cử chỉ hợp với tuổi trẻ hoặc trạng thái mơ mộng của hai thập kỷ trước, hợp
với những người đang yêu đắm đuối ở cuối thập niên ba mươi, đầu những năm bốn
mươi. Họ nói chuyện vội vã, nhảy lung tung từ tiếng Anh sang tiếng Tây Ban Nha.
Họ sẽ gặp nhau công khai được một lát, xử lý một việc chung của họ rồi dạt vào
một căn nhà gỗ nhỏ đã thuê sẵn, thường ở vùng biên giới phía nam Agua Prieta,
Mexico, trước kia dùng để săn chim cút.
Thực ra anh chưa làm được gì, anh nghĩ lúc tắm vòi hương
sen. Suốt hai năm trời anh đã loay hoay đến kiệt sức trong cái thời buổi khó
khăn này. Ở tuổi bốn mươi, lúc đứng trước gương và cạo râu, anh không còn dừng
lại thán phục hình dáng đẹp đẽ của mình nữa, cặp mắt anh thường xuyên mệt mỏi,
để lộ nhiều dấu hiệu của một người hay uống thuốc an thần
Anh lau khô người trong phòng khách, cho con chó săn lông
xù tên là Doll ra khỏi cánh cửa trượt, và bắt đầu một loạt các bài tập yoga phức
tạp. Anh dừng lại đặt đĩa La Mer của Debussy vào máy stereo và mỉm cười với bức
tranh lớn anh đã phóng từ bức ảnh lớp năm của con gái anh. Vừa mỉm cười, bứt rứt
vì lẻ loi, anh cảm thấy day dứt nhớ lại hồi ở Torrejón bên ngoài Madrid, cứ đến
thứ Bảy anh và con gái lại đi chợ, mua đủ thứ cho bữa ăn linh đình ngày Chủ nhật.
Con bé có mái tóc vàng lộng lẫy giống mẹ và hay hỏi đủ thứ về Tây Ban Nha, đất
nước đầy mê hoặc với nó. Sau đó hai bố con đến tiệm cà phê, anh gọi nửa chai
vang trắng, và một nước cam ép cho con gái, em hút chầm chậm và nói bằng giọng
trẻ con "jugo de naranja al natural". Những ông già Tây Ban Nha thích
ngắm cô bé ăn một đĩa tapas, thân ái nhận xét về chiều sâu của "tâm hồn"
cô bé đang ăn món mực dầm, ăn cả râu mực và tất tần tật. Giờ đây em sống với mẹ
ở San Diego. Cuộc thao diễn ở Lào của anh giữa bao nhiêu thứ (rượu, gái, sự bất
lực không thể ngồi yên) đã làm cuộc hôn nhân của họ tan vỡ. Hồi ở Lào, anh đã vẩy
một phát Phantom 75, để lại một gã thuỷ thủ chết đứ đừ, và ở hai tháng với một
số ngư dân thân thiện trong rừng rậm để tránh quân Pathet Lào và cộng sản. Về
cơ bản, anh chống chính trị và giờ đây chiến tranh chỉ là tái hiện trong những
cơn ác mộng. Anh đã từng là phi công lái khu trục suốt hai mốt năm, từ năm mười
chín đến ba chín tuổi, và lúc này không thể chịu được cảnh tượng một chiếc máy
bay. Anh lái chiếc Mark IV mòn vẹt đi khắp mọi nơi ở California, lao vào những
cuộc chè chén lu bù.
Sau khi tập xong, anh uống một tách cà phê và kiểm tra ba
cái vợt tennis C6 Trabert của anh. Ngày hôm kia, anh đã xếp thứ hai trong một
cuộc thi đấu ở câu lạc bộ, chỉ thua một thanh niên trẻ bằng nửa tuổi anh, đang
được coi là một tay nhà nghề có triển vọng hứa hẹn nhất ở Arizona. Hôm nay anh
và bạn chơi được coi là một cặp đánh đôi nhiều khả năng thắng, nhất là anh. Hôm
qua tỷ số là 7-5, 4-6 và 6-4 trong một ngày rất nóng và ngay cả khi đứng thứ
hai, anh biết anh sẽ không đứng thứ ba. Tibey đã sai thuộc hạ của anh ta đặt một
thùng Dom Perignon trong ô tô với một bông hồng trắng muốt, lẻ loi cài trên tấm
thiếp. Nhìn bông hồng trắng anh không thể đoán ra và nghĩ đến Miryea, vợ của
Tibey.
Tên thật của Tibey là Baldassaro Mendez. Giống như nhiều
người Mexico quá ư giàu có, anh ta giữ một ngôi nhà dự phòng ở Mỹ. Họ là một cộng
đồng nhỏ và đến dự tiệc ở nhà nhau tại Palm Beach, Dallas, Phoenix và San
Antonio. Họ đầu tư chiều sâu và bất động sản, một kiểu kinh doanh đơn giản nhất
đỡ phải trông coi, và dễ dàng bước vào các giới trong xã hội vì sự giàu có ghê
gớm của họ và sự quyến rũ của dân lục địa. Tibey sử dụng anh như một đấu thủ
gian lận trong các cuộc thi đấu ở nhà anh ta, và Cockran thán phục sức sống thô
lỗ của Tibey. Cockran luôn từ chối tiền của Tibey dù anh nhận lời đến thành phố
Mexico, ở đó là cặp đánh đôi họ đã lôi kéo hai gã Texas vào một trận đấu trên
nóc nhà ở Camino Real. Họ bỏ túi ba ngàn đôla, gần bằng số tiền Tibey mất bay
cho một bữa tiệc hai mươi người ở Forquet.
Miryea. Anh để những cái vợt xuống, thấy dây đã căng rất
chuẩn. Anh lấy bức ảnh trang xã hội trong ví ra và ngắm hình dáng hững hờ, mảnh
dẻ của nàng cưỡi con ngựa thuần chủng. Một sự vô lý hiển nhiên làm sao. Anh đã
trải qua nhiều cuộc chiến trên tình trường đủ để coi tình yêu gần như một thứ bệnh,
một quan niệm phổ biến thời xưa, hồi thế giới có vẻ như trẻ hơn và sáng suốt
hơn.
Anh nằm trên sàn và thở thật sâu, cố đoán ra đầu mối câu
chuyện đang hình thành trong đầu. Anh hay cười nhạo khi các phi công khác có
linh cảm về điềm gở, cứ như cảm giác tổn thất luôn có sẵn dưới xương ức của họ
và bắt đầu lan toả. Nhưng nó đã xảy ra vào ngày có chuyến công cán suýt chết của
anh; một van điều tiết không thể điều khiển nổi, một loại trôi tự do nghĩ mà sợ.
Doll cào cào bên cánh cửa trượt và anh để nó vào, phun nước cho nó mát mẻ rồi
vuốt ve nó trong cái ổ trên đi văng của nó. Doll lúc nào cũng mảnh khảnh, dịu
dàng, lặng lẽ và anh ngạc nhiên mỗi khi đưa nó ra cánh đồng, nó trở thành một
cái máy săn rất hăng hái.
Ai cũng mong có một giới hạn bí ẩn trong đời, để chẳng phải
làm gì đặc biệt cũng được yên ổn. Trước khi gặp Miryea, anh đã có cuộc tình ngắn
ngủi với một cô gái ở Corpus Christi, vừa tốt nghiệp Wellesley, nhưng sự huyền
bí sớm tan biến vì ác ý, anh nhận ra rằng anh đã "trói" mình vào chuyện
yêu đương này chỉ để khỏi buồn chán. Anh đã mất hai năm cố thu xếp cuộc sống
dân sự, và hiểu rằng chẳng bao giờ anh giải quyết mọi việc một cách chính xác
như trong hải quân, anh luôn có chuyện này nọ với người mẹ hay cáu, và anh là đứa
con nuôi mồ côi mà bà đối đãi chẳng khác gì anh hành nghề vậy. Cô gái Texas ấy
xinh đẹp, chân dài và sáng dạ nhưng quá trẻ và gàn gàn: cô như một ngôi nhà muốn
được người ta lui tới, còn Miryea dù chỉ lớn hơn cô vài tuổi lại là ngôi nhà
năng được lui tới. Anh chơi tennis ở nhà Tibey đã hơn ba tháng, song Miryea nhận
ra anh chỉ vì tình cờ. Hôm ấy, sau bữa tối ở nhà Tibey, mọi người uống quá nhiều
rượu vang, nàng bắt gặp anh đang ngắm nhìn những quyển sách trong thư viện của
nàng, trong lúc những người đàn ông khác lao vào cá cược rất cao cho ván bi-a,
còn cánh đàn bà đang trò chuyện về những Givenchys mới và vì sao Halston lại trở
thành uỷ mị.
Sau nhiều chuyến du lịch ở Guatánamo, lần đầu tiên anh
làm hướng dẫn và chuyến du lịch sau đó ở Torrejón anh đã nói tiếng Tây Ban Nha
trôi chảy. Anh không chịu làm kẻ ngu, ngay từ hồi niên thiếu ở Indiana anh đã
tháo rời một chiếc Ford V-8 xem nó hoạt động ra sao, và gia nhập Hải quân chỉ
vì muốn làm việc với các động cơ phản lực. Anh luôn ngạc nhiên sao dân chúng lại
đánh giá thấp sự hiểu biết về máy bay khu trục đến thế. Anh lao vào học tiếng
Tây Ban Nha cẩn thận và có phương pháp. Miền Trung Tây đã nổi tiếng về loại
thanh niên nông dân độc thân muốn hiểu biết mọi thứ, và ở Guantánamo, anh rất
ngạc nhiên thấy người ta nói được nhiều thứ tiếng khác nhau, một câu hỏi không
kèm phần hấp dẫn. Những anh chàng nông dân ấy rất biết nhìn xa trông rộng,
Cockran thích sự sáng tạo trong ngôn ngữ và học tiếng Tây Ban Nha như một cuộc
thử nghiệm, tìm tòi như một nhà thông thái ngốc nghếch, quen với lịch Tàu mà vẫn
khư khư giữ tiểu thuyết và thơ. Không người nào trong số bạn bè dám hỏi vì sao
anh là người đứng đầu thật tự nhiên và là người giỏi nhất trong mọi việc anh chọn
làm, dù là đáng pool (3), bơi với một ống thở và chơi tennis, luôn giữ vai độc
tôn trong những chuyện nhảm nhí như một thứ bẩm sinh và anh say mê hơn, táo bạo
hơn mọi người, đến mức đáng ghen tỵ.
Lúc con người xinh đẹp này đến gần, anh đang cầm một quyển
sách, tuyển tập Lorca mà anh rất quen in trên giấy vỏ hành (4), bìa bọc da ở
Barcelona. Anh đã hoàn toàn nhầm lẫn vì thái độ hờ hững của nàng suốt ba tháng
qua. Sự thể đã vượt xa ý định đánh "một cú" vào khu vực căng thẳng
dành riêng, thành thử lúc nhìn thấy nàng anh mất hết vẻ duyên dáng, thoải mái
và chủ động của mình. Anh cảm thấy nàng chỉ cần liếc mắt là anh đã bị gục ngã
và hôm trước trong lúc đang bơi, anh đã phải uống một cốc mới dám nhìn nàng cắn
miếng bánh mì kẹp trước khi nàng quyết định ngủ trưa, và Tibey đã nhún vai, một
cử chỉ phổ biến tỏ thái độ không hiểu. Anh nghĩ với tư cách là bạn của Tibey,
nàng cho anh là một kẻ làm ăn to đầu mà dại và anh đã khéo léo làm mọi thứ để
xua tan ý nghĩ của nàng. Lúc nàng áp sát vào anh bên giá sách, anh nhận ra đây
là lần đầu tiên anh nói chuyện với nàng chỉ có một mình. Nàng gõ nhẹ vào quyển
sách trong tay anh và đọc tên sách. Nàng mỉm cười và trích dẫn Lorca (5)
"Quiero dormir el sueno Deckẻ las mansanas, alearme tumulto de los
cênterios...." (Tôi muốn ngủ một giấc diệu huyền, xa cách sự hỗn độn của
các nghĩa trang...). Anh tưởng như chưa bao giờ nghe thấy lời nào đẹp hơn và
nhìn đăm đăm lên trần nhà, đỏ mặt như một cậu học sinh thật thà, anh cũng trích
dẫn bài thơ ấy đáp lại:
"Tu vientre es una lucha de raicer
y tus labios una alba sin nàngntro
Bajo las rosas tibias Decker la cama
los muertos gimen esperando turno"
("Bụng em là chiến trường của mọi gốc rễ
Môi em là ánh bình minh mờ tỏ
Dưới những bông hồng ấm áp trên giường
Người chết rên rỉ, đợi đến lượt").
Nàng nhìn anh đăm đăm trong giây lát và thái dương anh đập
loạn xạ. Nàng đỏ bừng mặt và ngoảnh nhìn đi, còn anh muốn nói một câu ngốc nghếch
nào đó cho đỡ căng thẳng nhưng không thể tìm ra lời. Nàng hếch cằm như đang
nhìn một vật xa xăm và lúc nhìn vào cổ nàng, anh tưởng như thấy mùi thơm hoà trộn
giữa cỏ ba lá và quả cam. Anh đánh rơi quyển sách xuống sàn và nàng cười phá
lên rồi bỏ đi. Anh nốc hết một ly đầy brandy, rượu cứ dâng lên trong cổ làm anh
trào nước mắt.
( 1 ) Mennonite: thành viên của giáo phái Cơ đốc, xuất hiện
ở Friesland vào thế kỷ 16, giữ nguyên tắc tương tự như tín đồ Anabaptist, phản
đối việc tắm rửa cho trẻ sơ sinh, tuyên thệ, tham gia quân ngũ và nắm giữ cơ
quan dân sự. Trong các thế kỷ sau đó, nhiều người di cư sang châu Âu, Nga rồi đến
Bắc và Nam Mỹ để tìm kiếm tự do về chính trị. (2 ) Mescal: loại rượu không màu
của người da đỏ Mexico chưng cất từ lá cây thùa
( 3 ) pool (pun): một lối chơi bi-a có 16 viên tròn trên
bàn, tương tự lối đánh 21 viên.
( 4 ) Giấy vỏ hành: một loại giấy mỏng, mặt láng
( 5 ) Federico Garcia Lorca (1899-1936): nhà thơ và
nhà viết kịch Tây Ban Nha
+ nhận xét + 1 nhận xét
Hay ^-^
Post a Comment